Ads 468x60px

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2022

TRUYỀN GIÁO: CHỨNG NHÂN (Sứ điệp truyền giáo 2022)


“…Ngoài ra, các môn đệ được thúc đẩy sống đời sống cá nhân của họ theo hướng truyền giáo: họ được Đức Giêsu sai vào thế giới không chỉ để thi hành sứ vụ, nhưng trước hết cũng là để sống sứ vụ được uỷ thác cho họ; không chỉ để làm chứng, nhưng trước hết cũng để là những chứng nhân của Đức Kitô. Theo những lời lẽ rất cảm động của Tông Đồ Phaolô, “[chúng tôi] luôn mang nơi thân mình sự chết của Ðức Giêsu, để sự sống của Ðức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân
mình chúng tôi” (2 Cr 4, 10).
Yếu tính của sứ vụ là làm chứng cho Đức Kitô, nghĩa là làm chứng cho sự sống, cuộc thương khó, sự chết và sự phục sinh của Người vì yêu mến Chúa Cha và loài người. Không phải tình cờ mà các tông đồ đã tìm người thay thế Giuđa trong số chính những người đã chứng kiến Chúa sống lại (x. Cv 1, 21). Đức Kitô, thực ra là Đức Kitô phục sinh từ cõi chết, chính là Đấng chúng ta phải làm chứng và chia sẻ sự sống của Người. Những người truyền giáo của Đức Kitô được sai đi không phải để chứng tỏ bản thân họ, phô bày các đức tính thuyết phục và các khả năng hay năng khiếu quản trị của họ. Trái lại, vinh dự tột đỉnh của họ chính là trình bày Đức Kitô bằng lời nói và việc làm, công bố cho mọi người Tin Mừng cứu độ của Người với niềm vui và sự dạn dĩ, giống như các tông đồ thời sơ khai đã làm.
Suy cho cùng, người làm chứng đích thực là người “tử đạo”, người hiến mạng sống mình cho Đức Kitô, để đáp lại món quà Người đã hiến mạng sống mình cho chúng ta. “Lý do chính của việc loan báo Tin Mừng là tình yêu của Đức Giêsu mà chúng ta đã lãnh nhận, kinh nghiệm cứu rỗi đã thúc đẩy chúng ta ngày càng yêu mến Người hơn” (Evangelii Gaudium, 264).
Sau cùng, khi nói đến chứng tá Kitô giáo, lời nhận xét của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI vẫn còn nguyên giá trị: “Người thời nay sẵn sàng nghe các chứng nhân hơn các thầy dạy, và nếu họ nghe các thầy dạy, thì cũng vì đó là những chứng nhân” (Evangelii Nuntiandi, 41). Vì vậy, chứng tá của một đời sống Kitô giáo là yếu tố cơ bản để thông truyền đức tin. Mặt khác, nhiệm vụ rao giảng con người Đức Kitô và sứ điệp của Người đều cần thiết như nhau. Thực vậy, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI nói tiếp: “Rao giảng, công bố một sứ điệp bằng lời giảng, luôn luôn là thiết yếu… Lời giảng luôn luôn giữ được tính thời sự của nó, đặc biệt khi nó mang sức mạnh của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao câu châm ngôn của Thánh Phaolô vẫn còn hợp thời, “Có đức tin là nhờ nghe giảng” (Rm 10:17): chính lời được nghe dẫn đến niềm tin” (ibid., 42).
Do đó, trong việc loan báo Tin Mừng, gương sáng của đời sống Kitô giáo và việc rao giảng Đức Kitô là hai yếu tố không thể tách rời. Yếu tố này phục vụ yếu tố kia. Chúng là hai lá phổi mà mọi cộng đoàn phải dùng để thở, nếu muốn là cộng đoàn truyền giáo. Kiểu làm chứng cho Đức Kitô một cách đầy đủ, nhất quán và vui tươi này chắc chắn cũng sẽ là một lực hấp dẫn cho sự tăng trưởng của Hội Thánh trong thiên niên kỷ thứ ba này. Tôi khuyên nhủ mọi người một lần nữa lấy lại sự can đảm, thẳng thắn và dạn dĩ của các Kitô hữu thời kỳ đầu, để làm chứng cho Đức Kitô bằng lời nói và việc làm trong mọi lãnh vực của đời sống.” (Sứ điệp truyền giáo 2022)
Đọc tiếp »

MÔI CÔI, LỜI KINH GIA ĐÌNH (ĐTC JOHN PAUL II)


The family: parents...
41. As a prayer for peace, the Rosary is also, and always has been, a prayer of and for the family. At one time this prayer was particularly dear to Christian families, and it certainly brought them closer together. It is important not to lose this precious inheritance. We need to return to the practice of family prayer and prayer for families, continuing to use the Rosary.
In my Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte I encouraged the celebration of the Liturgy of the Hours by the lay faithful in the ordinary life of parish communities and Christian groups;(39) I now wish to do the same for the Rosary. These two paths of Christian contemplation are not mutually exclusive; they complement one another. I would therefore ask those who devote themselves to the pastoral care of families to recommend heartily the recitation of the Rosary.
The family that prays together stays together. The Holy Rosary, by age-old tradition, has shown itself particularly effective as a prayer which brings the family together. Individual family members, in turning their eyes towards Jesus, also regain the ability to look one another in the eye, to communicate, to show solidarity, to forgive one another and to see their covenant of love renewed in the Spirit of God.
Many of the problems facing contemporary families, especially in economically developed societies, result from their increasing difficulty in communicating. Families seldom manage to come together, and the rare occasions when they do are often taken up with watching television. To return to the recitation of the family Rosary means filling daily life with very different images, images of the mystery of salvation: the image of the Redeemer, the image of his most Blessed Mother. The family that recites the Rosary together reproduces something of the atmosphere of the household of Nazareth: its members place Jesus at the centre, they share his joys and sorrows, they place their needs and their plans in his hands, they draw from him the hope and the strength to go on.
... and children
42. It is also beautiful and fruitful to entrust to this prayer the growth and development of children. Does the Rosary not follow the life of Christ, from his conception to his death, and then to his Resurrection and his glory? Parents are finding it ever more difficult to follow the lives of their children as they grow to maturity. In a society of advanced technology, of mass communications and globalization, everything has become hurried, and the cultural distance between generations is growing ever greater. The most diverse messages and the most unpredictable experiences rapidly make their way into the lives of children and adolescents, and parents can become quite anxious about the dangers their children face. At times parents suffer acute disappointment at the failure of their children to resist the seductions of the drug culture, the lure of an unbridled hedonism, the temptation to violence, and the manifold expressions of meaninglessness and despair.
To pray the Rosary for children, and even more, with children, training them from their earliest years to experience this daily “pause for prayer” with the family, is admittedly not the solution to every problem, but it is a spiritual aid which should not be underestimated. It could be objected that the Rosary seems hardly suited to the taste of children and young people of today. But perhaps the objection is directed to an impoverished method of praying it. Furthermore, without prejudice to the Rosary's basic structure, there is nothing to stop children and young people from praying it – either within the family or in groups – with appropriate symbolic and practical aids to understanding and appreciation. Why not try it? With God's help, a pastoral approach to youth which is positive, impassioned and creative – as shown by the World Youth Days! – is capable of achieving quite remarkable results. If the Rosary is well presented, I am sure that young people will once more surprise adults by the way they make this prayer their own and recite it with the enthusiasm typical of their age group.
I look to all of you, brothers and sisters of every state of life, to you, Christian families, to you, the sick and elderly, and to you, young people: confidently take up the Rosary once again. Rediscover the Rosary in the light of Scripture, in harmony with the Liturgy, and in the context of your daily lives.
May this appeal of mine not go unheard! At the start of the twenty-fifth year of my Pontificate, I entrust this Apostolic Letter to the loving hands of the Virgin Mary, prostrating myself in spirit before her image in the splendid Shrine built for her by Blessed Bartolo Longo, the apostle of the Rosary. I willingly make my own the touching words with which he concluded his well-known Supplication to the Queen of the Holy Rosary: “O Blessed Rosary of Mary, sweet chain which unites us to God, bond of love which unites us to the angels, tower of salvation against the assaults of Hell, safe port in our universal shipwreck, we will never abandon you. You will be our comfort in the hour of death: yours our final kiss as life ebbs away. And the last word from our lips will be your sweet name, O Queen of the Rosary of Pompei, O dearest Mother, O Refuge of Sinners, O Sovereign Consoler of the Afflicted. May you be everywhere blessed, today and always, on earth and in heaven”.
From the Vatican, on the 16th day of October in the year 2002, the beginning of the twenty- fifth year of my Pontificate.
JOHN PAUL II





Đọc tiếp »

CHỈ CÓ TÌNH YÊU... (ĐTC Phanxicô, 20/10/2020)


“... Anh chị em thân mến, đồi Canvê là địa điểm diễn ra cuộc “đấu khẩu” lớn giữa Thiên Chúa, Đấng đến để cứu chúng ta và con người, là những kẻ chỉ muốn cứu chính mình. Đó là cuộc tranh luận giữa niềm tin vào Chúa và sự tôn thờ cái tôi; giữa con người buộc tội và Thiên Chúa bào chữa. Cuối cùng, chiến thắng của Thiên Chúa đã được tỏ lộ; lòng thương xót của Ngài đã cúi xuống trên trái đất. Từ thập giá, ơn tha thứ tuôn đổ và tình yêu huynh đệ được tái sinh: “Thập giá làm cho chúng ta trở thành anh chị em” (Benedict XVI, Diễn từ tại buổi Đi Đàng Thánh giá tại Đấu trường Colôsêô của Rôma, ngày 21 tháng 3 năm 2008). Cánh tay của Chúa Giêsu, dang ra trên thập tự giá, đánh dấu bước ngoặt, vì Thiên Chúa không chỉ ngón tay vào ai hết cả, nhưng thay vào đó, ôm lấy tất cả. Vì chỉ tình yêu mới có thể dập tắt hận thù, chỉ có tình yêu cuối cùng mới có thể chiến thắng bất công. Chỉ có tình yêu mới có khả năng nhường chỗ cho những người khác. Chỉ có tình yêu mới là con đường dẫn đến sự hiệp thông trọn vẹn giữa chúng ta.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa chịu đóng đinh ban ơn để chúng ta được hiệp nhất và huynh đệ hơn. Khi chúng ta bị cám dỗ đi theo con đường của thế gian này, xin cho chúng ta nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8: 35). Sự mất mát trong mắt thế giới lại chính là ơn cứu rỗi đối với chúng ta. Xin cho chúng con học nơi Chúa, Đấng đã cứu chúng con bằng cách trút bỏ chính mình (x. Pl 2, 7) và mặc lấy thân phận khác: từ Thiên Chúa, Người đã trở thành phàm nhân; từ Thần Khí, Người trở thành huyết nhục: từ một vị vua, Người trở thành nô lệ. Chúa yêu cầu chúng ta làm điều tương tự, là hạ mình, là “trở nên khác đi” để tiếp cận với người khác. Càng trở nên gần gũi với Chúa Giêsu, chúng ta càng cởi mở và “phổ quát” hơn, vì chúng ta sẽ cảm thấy có trách nhiệm với người khác. Và những người khác sẽ trở thành phương tiện cứu rỗi chính chúng ta: tất cả những người khác, mọi con người, bất kể lịch sử và tín ngưỡng của họ. Bắt đầu với những người nghèo, là những người giống Chúa Giêsu nhất. Vị Tổng Giám Mục vĩ đại của thành Constantinople, Thánh Gioan Kim Khẩu, đã từng viết: “Nếu không có người nghèo, phần lớn sự cứu rỗi của chúng ta sẽ bị lung lay” (Bàn về Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi tín hữu Cô-rinh-tô, XVII, 2). Xin Chúa giúp chúng ta cùng nhau đồng hành trên con đường huynh đệ, và nhờ đó trở thành những chứng nhân đáng tin cậy cho Thiên Chúa thật.”
(ĐTC Phanxicô, 20/10/2020)
Đọc tiếp »

CHÚA NHẬT XXX - Mùa TN C



Đọc tiếp »

Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2022

Ngày 22 tháng 10: Lễ nhớ thánh Gioan Phaolô II


Ta vô website Tòa Thánh đọc cuộc đời của ngài, xin ngài phù giúp chúng ta:
JOHN PAUL II
(1920-2005)
Karol Józef Wojtyła, elected Pope on 16 October 1978, was born in Wadowice, Poland, on 18 May 1920.

He was the third of three children born to Karol Wojtyła and Emilia Kaczorowska, who died in 1929. His elder brother Edmund, a physician, died in 1932, and his father, Karol, a non-commissioned officer in the army, died in 1941.
He was nine years old when he received his First Communion and eighteen when he received the Sacrament of Confirmation. After completing high school in Wadowice, he enrolled in the

Jagellonian University of Krakow in 1938.
When the occupying Nazi forces closed the University in 1939, Karol worked (1940-1944) in a quarry and then in the Solvay chemical factory to earn a living and to avoid deportation to Germany.
Feeling called to the priesthood, he began his studies in 1942 in the clandestine major seminary of Krakow, directed by the Archbishop Adam Stefan Sapieha. During that time, he was one of the organizers of the "Rhapsodic Theatre", which was also clandestine.
After the war, Karol continued his studies in the major seminary, newly reopened, and in the school of theology at the Jagellonian University, until his priestly ordination in Krakow on 1 November 1946. Father Wojtyła was then sent by Cardinal Sapieha to Rome, where he attained a doctorate in theology (1948). He wrote his dissertation on faith as understood in the works of Saint John of the Cross. While a student in Rome, he spent his vacations exercising pastoral ministry among Polish emigrants in France, Belgium and Holland.
In 1948, Father Wojtyła returned to Poland and was appointed a curate in the parish church of Niegowić, near Krakow, and later at Saint Florian in the city. He was a university chaplain until 1951, when he again undertook studies in philosophy and theology. In 1953, Father Wojtyła presented a dissertation at the Jagellonian University of Krakow on the possibility of grounding a Christian ethic on the ethical system developed by Max Scheler. Later he became professor of moral theology and ethics in the major seminary of Krakow and in the theology faculty of Lublin.
On 4 July 1958, Pope Pius XII appointed Father Wojtyła auxiliary bishop of Krakow, with the titular see of Ombi. Archbishop Eugeniusz Baziak ordained him in Wawel Cathedral (Krakow) on 28 September 1958.
On 13 January 1964, Pope Paul VI appointed Bishop Wojtyła as Archbishop of Krakow and subsequently, on 26 June 1967, created him a Cardinal.
Bishop Wojtyła took part in the Second Vatican Council (1962- 1965) and made a significant contribution to the drafting of the Constitution Gaudium et Spes. He also took part in the five assemblies of the Synod of Bishops prior to the start of his Pontificate.
On 16 October 1978, Cardinal Wojtyła was elected Pope and on 22 October he began his ministry as universal Pastor of the Church.
Pope John Paul II made 146 pastoral visits in Italy and, as the Bishop of Rome, he visited 317 of the current 322 Roman parishes. His international apostolic journeys numbered 104 and were expressions of the constant pastoral solicitude of the Successor of Peter for all the Churches.
His principal documents include 14 Encyclicals, 15 Apostolic Exhortations, 11 Apostolic Constitutions and 45 Apostolic Letters. He also wrote five books: Crossing the Threshold of Hope (October 1994); Gift and Mystery: On the Fiftieth Anniversary of My Priestly Ordination (November 1996); Roman Triptych, meditations in poetry (March 2003); Rise, Let Us Be on Our Way (May 2004) and Memory and Identity (February 2005).
Pope John Paul II celebrated 147 beatifications, during which he proclaimed 1,338 blesseds, and 51 canonizations, for a total of 482 saints. He called 9 consistories, in which he created 231 Cardinals (plus one in pectore). He also presided at 6 plenary meetings of the College of Cardinals.
From 1978, Pope John Paul II convoked 15 assemblies of the Synod of Bishops: 6 ordinary general sessions (1980, 1983, 1987, 1990, 1994 and 2001), 1 extraordinary general session (1985) and 8 special sessions (1980, 1991, 1994, 1995, 1997, 1998 (2) and 1999).
On 3 May 1981, an attempt was made on Pope John Paul II's life in Saint Peter's Square. Saved by the maternal hand of the Mother of God, following a lengthy stay in the hospital, he forgave the attempted assassin and, aware of having received a great gift, intensified his pastoral commitments with heroic generosity.
Pope John Paul II also demonstrated his pastoral concern by erecting numerous dioceses and ecclesiastical circumscriptions, and by promulgating Codes of Canon Law for the Latin and the Oriental Churches, as well as the Catechism of the Catholic Church. He proclaimed the Year of Redemption, the Marian Year and the Year of the Eucharist as well as the Great Jubilee Year of 2000, in order to provide the People of God with particularly intense spiritual experiences. He also attracted young people by beginning the celebration of World Youth Day.
No other Pope met as many people as Pope John Paul II. More than 17.6 million pilgrims attended his Wednesday General Audiences (which numbered over 1,160). This does not include any of the other special audiences and religious ceremonies (more than 8 million pilgrims in the Great Jubilee Year of 2000 alone). He met millions of the faithful in the course of his pastoral visits in Italy and throughout the world. He also received numerous government officials in audience, including 38 official visits and 738 audiences and meetings with Heads of State, as well as 246 audiences and meetings with Prime Ministers.
Pope John Paul II died in the Apostolic Palace at 9:37 p.m. on Saturday, 2 April 2005, the vigil of Sunday in albis or Divine Mercy Sunday, which he had instituted. On 8 April, his solemn funeral was celebrated in Saint Peter's Square and he was buried in the crypt of Saint Peter's Basilica.
John Paul II was beatified in Saint Peter's Square on 1 May 2011 by Pope Benedict XVI, his immediate successor and for many years his valued collaborator as Prefect for the Congregation for the Doctrine of the Faith.
He was canonised on 27 April 2014, together with Pope John XXIII, by Pope Francis.
Đọc tiếp »

TRUYỀN GIÁO: THI HÀNH SỨ VỤ CHUNG (Sứ điệp Truyền Giáo 2022)


“Đọc kỹ hơn câu: “Anh em sẽ là nhân chứng của Thầy” chúng ta sẽ hiểu rõ hơn những khía cạnh luôn luôn hợp thời của sứ mệnh mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ. Động từ để ở dạng số nhiều nhằm nhấn mạnh tính cộng đoàn và giáo hội của ơn gọi truyền giáo nơi người môn đệ. Mỗi người đã rửa tội đều được kêu gọi truyền giáo trong Hội Thánh và bởi sự uỷ nhiệm của Hội Thánh: do đó, việc truyền giáo được thi

hành chung với nhau, không phải từng cá
nhân riêng rẽ, trong sự hiệp thông với cộng đoàn Hội Thánh chứ không theo sáng kiến cá nhân của mỗi người. Ngay cả khi một cá nhân trong một tình huống rất đặc biệt mà thi hành sứ vụ truyền giáo một mình, họ phải luôn luôn thi hành sứ vụ này trong sự hiệp thông với Hội Thánh là người uỷ nhiệm họ.
Như Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã dạy trong Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi), một văn kiện mà tôi rất yêu thích: “Loan báo Tin Mừng không phải là một hành vi cá nhân và riêng lẻ đối với bất cứ ai, nhưng nó mang tính Giáo Hội một cách sâu xa. Khi một người giảng thuyết, một giáo lý viên hay một mục tử âm thầm nhất, ở một miền đất xa xăm nhất, rao giảng Phúc Âm, tập hợp cộng đoàn nhỏ bé của mình lại hay ban phát các bí tích, cho dù đơn độc một mình, người ấy đang thực thi một hành vi của Hội Thánh, và hành động của họ chắc chắn gắn liền với hoạt động phúc âm hoá của toàn thể Hội Thánh bởi những tương quan về thể chế, nhưng cũng bởi những sự liên kết vô hình thâm sâu trong trật tự của ân sủng. Ðiều này nói lên rằng, người ấy hành động không phải vì sứ vụ họ tự gán cho mình, hay theo cảm hứng cá nhân, mà là hiệp nhất với sứ vụ của Hội Thánh và nhân danh Hội Thánh” (số 60).
Trên thực tế, không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu đã sai các môn đệ từng hai người một đi truyền giáo; việc làm chứng của người Kitô hữu cho Đức Kitô chủ yếu mang tính cộng đoàn. Vì vậy, khi thi hành việc truyền giáo, sự hiện diện của một cộng đoàn có tầm quan trọng cơ bản, bất kể là một cộng đoàn lớn hay nhỏ.” (Sứ điệp Truyền Giáo 2022)
Đọc tiếp »

KINH LẠY CHA, KÍNH MỪNG, SÁNG DANH (Tông thư Kinh Môi Côi )


KINH LẠY CHA, KÍNH MỪNG, SÁNG DANH
Khi lần hạt, sau mỗi ngắm ta đọc 1 kinh Lạy Cha, 10 kinh Kính Mừng và 1 kinh Sáng Danh; tông thư Kinh Môi Côi sẽ giúp ta hiểu rõ ý nghĩa lời kinh đơn sơ quen thuộc này:
The “Our Father”
32. After listening to the word and focusing on the mystery, it is natural for the mind to be lifted up towards the Father. In each of his mysteries, Jesus always leads us to the Father, for as he rests in the Father's bosom (cf. Jn 1:18) he is continually turned towards him. He wants us to share in his intimacy with the Father, so that we can say with him: “Abba, Father” (Rom 8:15; Gal 4:6). By virtue of his relationship to the Father he makes us brothers and sisters of himself and of one another, communicating to us the Spirit which is both his and the Father's. Acting as a kind of foundation for the Christological and Marian meditation which unfolds in the repetition of the Hail Mary, the Our Father makes meditation upon the mystery, even when carried out in solitude, an ecclesial experience.
The ten “Hail Marys”
33. This is the most substantial element in the Rosary and also the one which makes it a Marian prayer par excellence. Yet when the Hail Mary is properly understood, we come to see clearly that its Marian character is not opposed to its Christological character, but that it actually emphasizes and increases it. The first part of the Hail Mary, drawn from the words spoken to Mary by the Angel Gabriel and by Saint Elizabeth, is a contemplation in adoration of the mystery accomplished in the Virgin of Nazareth. These words express, so to speak, the wonder of heaven and earth; they could be said to give us a glimpse of God's own wonderment as he contemplates his “masterpiece” – the Incarnation of the Son in the womb of the Virgin Mary. If we recall how, in the Book of Genesis, God “saw all that he had made” (Gen 1:31), we can find here an echo of that “pathos with which God, at the dawn of creation, looked upon the work of his hands”.(36) The repetition of the Hail Mary in the Rosary gives us a share in God's own wonder and pleasure: in jubilant amazement we acknowledge the greatest miracle of history. Mary's prophecy here finds its fulfilment: “Henceforth all generations will call me blessed” (Lk 1:48).
The centre of gravity in the Hail Mary, the hinge as it were which joins its two parts, is the name of Jesus. Sometimes, in hurried recitation, this centre of gravity can be overlooked, and with it the connection to the mystery of Christ being contemplated. Yet it is precisely the emphasis given to the name of Jesus and to his mystery that is the sign of a meaningful and fruitful recitation of the Rosary. Pope Paul VI drew attention, in his Apostolic Exhortation Marialis Cultus, to the custom in certain regions of highlighting the name of Christ by the addition of a clause referring to the mystery being contemplated.(37) This is a praiseworthy custom, especially during public recitation. It gives forceful expression to our faith in Christ, directed to the different moments of the Redeemer's life. It is at once a profession of faith and an aid in concentrating our meditation, since it facilitates the process of assimilation to the mystery of Christ inherent in the repetition of the Hail Mary. When we repeat the name of Jesus – the only name given to us by which we may hope for salvation (cf. Acts 4:12) – in close association with the name of his Blessed Mother, almost as if it were done at her suggestion, we set out on a path of assimilation meant to help us enter more deeply into the life of Christ.
From Mary's uniquely privileged relationship with Christ, which makes her the Mother of God, Theotókos, derives the forcefulness of the appeal we make to her in the second half of the prayer, as we entrust to her maternal intercession our lives and the hour of our death.
The “Gloria”
34. Trinitarian doxology is the goal of all Christian contemplation. For Christ is the way that leads us to the Father in the Spirit. If we travel this way to the end, we repeatedly encounter the mystery of the three divine Persons, to whom all praise, worship and thanksgiving are due. It is important that the Gloria, the high-point of contemplation, be given due prominence in the Rosary. In public recitation it could be sung, as a way of giving proper emphasis to the essentially Trinitarian structure of all Christian prayer.
To the extent that meditation on the mystery is attentive and profound, and to the extent that it is enlivened – from one Hail Mary to another – by love for Christ and for Mary, the glorification of the Trinity at the end of each decade, far from being a perfunctory conclusion, takes on its proper contemplative tone, raising the mind as it were to the heights of heaven and enabling us in some way to relive the experience of Tabor, a foretaste of the contemplation yet to come: “It is good for us to be here!” (Lk 9:33).
The concluding short prayer
35. In current practice, the Trinitarian doxology is followed by a brief concluding prayer which varies according to local custom. Without in any way diminishing the value of such invocations, it is worthwhile to note that the contemplation of the mysteries could better express their full spiritual fruitfulness if an effort were made to conclude each mystery with a prayer for the fruits specific to that particular mystery. In this way the Rosary would better express its connection with the Christian life. One fine liturgical prayer suggests as much, inviting us to pray that, by meditation on the mysteries of the Rosary, we may come to “imitate what they contain and obtain what they promise”.(38)
Such a final prayer could take on a legitimate variety of forms, as indeed it already does. In this way the Rosary can be better adapted to different spiritual traditions and different Christian communities. It is to be hoped, then, that appropriate formulas will be widely circulated, after due pastoral discernment and possibly after experimental use in centres and shrines particularly devoted to the Rosary, so that the People of God may benefit from an abundance of authentic spiritual riches and find nourishment for their personal contemplation.








Đọc tiếp »

XIN GIÚP CON LÀM LÀNH LÁNH DỮ


(Rm 7, 18-25)
Thưa anh em, tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. 19 Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. 20 Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
21 Bởi đó tôi khám phá ra luật này : khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. 22 Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa ; 23 nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác : luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
24 Tôi thật là một người khốn nạn ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ? 25a Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta !
Suy niệm
Bài đọc 1 hôm nay rất ý nghĩa cho ngày toàn quốc chay tịnh và làm việc thiện xin ơn chữa lành khỏi đại dịch Covid-19, trùng ngày lễ nhớ thánh giáo hoàng Gioan Phaolô 2, vị giáo hoàng can đảm thay đổi thế giới tốt hơn… Xin ngài cùng thánh nữ bác ái của thế kỷ 21-Mẹ Têrêxa giúp chúng con “nhiệt tâm làm việc thiện”… để qua cơn dịch này, thế giới có nền văn minh tình thương tốt đẹp hơn…
Đọc tiếp »

“Hãy tự cứu mình đi.” (Mc 15, 30) (ĐTC Phanxicô, 20/10/2020)


“... Hãy tự cứu mình đi. Những người tiếp theo nói những lời này là các thầy thượng tế và các kinh sư. Họ là những người đã lên án Chúa Giêsu, vì họ coi Ngài là một kẻ nguy hiểm. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều là những chuyên gia trong việc đóng đinh người khác để tự cứu mình. Chúa Giêsu đã để cho mình bị đóng đinh, để dạy chúng ta đừng gán điều ác sang người khác. Các thầy thượng tế đã buộc tội Ngài chính vì những gì Ngài đã làm cho người khác: “Ông ấy đã cứu người khác nhưng lại không thể tự cứu mình!” (Câu 31). Họ biết Chúa Giêsu; họ nhớ đến những phép lạ chữa lành và giải thoát mà Ngài đã thực hiện, nhưng họ đã đưa ra một kết luận đầy ác ý. Đối với họ, cứu người khác, giúp đỡ tha nhân, là chuyện tào lao vô ích; Chúa Giêsu, Đấng đã tự hiến mình trọn vẹn cho tha nhân, đã bị mất chính mình! Giọng điệu chế giễu của lời buộc tội được sử dụng bằng ngôn ngữ tôn giáo, hai lần sử dụng động từ “cứu”. Nhưng “phúc âm” của việc tự cứu mình không phải là Phúc âm của ơn cứu rỗi. Đó là điều sai trái nhất trong các phúc âm ngụy tạo, khiến người khác phải vác thập tự giá. Trong khi đó, Phúc Âm đích thực đòi buộc chúng ta vác thập tự giá của người khác.
Hãy tự cứu mình đi. Cuối cùng, một trong những người bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu cũng tham gia vào việc chế nhạo ngài. Thật dễ dàng biết bao khi chỉ trích, khi nói chống lại người khác, khi chỉ ra cái xấu ở người khác chứ không phải những khuyết điểm của chính mình, thậm chí đổ lỗi cho kẻ yếu và người bị ruồng bỏ! Nhưng tại sao anh ta lại khó chịu với Chúa Giêsu? Bởi vì Ngài đã không giúp đưa anh ta xuống khỏi thập tự giá. Anh ta nói với Ngài: “Hãy cứu lấy bản thân và cả chúng tôi nữa!” (Lc 23: 39). Người ta chỉ tìm đến Chúa Giêsu để tìm cách giải quyết vấn đề của họ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không đến chỉ để giải thoát chúng ta khỏi những vấn đề hằng ngày luôn tồn tại, mà còn là để giải thoát chúng ta khỏi một vấn đề thực sự, đó là thiếu tình yêu. Đây là nguyên nhân chính gây ra các tệ nạn cá nhân, xã hội, quốc tế và môi trường của chúng ta. Chỉ nghĩ về bản thân mình: đây là cha đẻ của mọi tệ nạn. Tuy nhiên, một trong những tên trộm sau đó nhìn vào Chúa Giêsu và thấy nơi Người một tình yêu khiêm nhường. Người trộm lành ấy được vào thiên đàng bằng cách làm một việc duy nhất: anh ta chuyển mối quan tâm đến chính mình sang Chúa Giêsu, từ chính mình sang người bên cạnh (xem câu 42)...” (ĐTC Phanxicô, 20/10/2020)
Đọc tiếp »

Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2022

GX CÙ MI: MỤC VỤ THÁNG 11

Đọc tiếp »

Thứ sáu, 29 tn

Bđ1, Ep 4 :
Thưa anh em, tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. 2 Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại ; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. 3 Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. 4 Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. 5 Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. 6 Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người, và trong mọi người.
Suy niệm :
“Xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu Chúa... xin giải thoát chúng con xa điều bất hoà chia rẽ...”
Brothers and sisters : I, a prisoner for the Lord, urge you to live in a manner worthy of the call you have received, with all humility and gentleness, with patience, bearing with one another through love, striving to preserve the unity of the spirit through the bond of peace: one body and one Spirit, as you were also called to the one hope of your call; one Lord, one faith, one baptism; one God and Father of all, who is over all and through all and in all.
Đọc tiếp »

SỨ ĐIỆP TRUYỀN GIÁO 2022 (ĐTC Phanxicô)


Chúa nhật 23/10/2022 là ngày thế giới truyền giáo, xin trích đọc sứ điệp truyền giáo của ĐTC Phanxicô:
“Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8)
Anh chị em thân mến!
Những lời này đã được Đức Giêsu Phục Sinh nói với các môn đệ trước khi Người lên trời, như chúng ta học được trong sách Công Vụ Tông Đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất” (1,8). Đây cũng là chủ đề của Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2022, ngày này luôn luôn nhắc nhớ chúng ta rằng Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo.
Năm nay Ngày Thế Giới Truyền Giáo cống hiến chúng ta cơ hội để tưởng nhớ một số sự kiện quan trọng trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh: Kỷ niệm bốn trăm năm thành lập Bộ Truyền Bá Đức Tin (de Propaganda Fide), nay là Bộ Loan Báo Tin Mừng các Dân Tộc, và kỷ niệm hai trăm năm Hội Truyền Bá Đức Tin. Một trăm năm trước đây, Hội này cùng với Hội Thánh Nhi và Hội Thánh Phêrô Tông Đồ đã được ban tặng danh hiệu “thuộc Giáo Hoàng” (các Hội Giáo hoàng Truyền giáo).
Chúng ta hãy suy tư về ba câu nòng cốt tổng hợp ba nền tảng của đời sống và sứ vụ của mọi người môn đệ: “Anh em sẽ là nhân chứng của Thầy”, “cho đến tận cùng trái đất”, và “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần.”
1. “Anh em sẽ là nhân chứng của Thầy”
Ơn gọi của mỗi người Kitô hữu là làm chứng cho Đức Kitô
Đây là tâm điểm, là trọng tâm giáo huấn của Chúa Giêsu cho các môn đệ, nhắm tới việc họ được sai đi vào thế giới. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà họ sẽ lãnh nhận, tất cả môn đệ đều là chứng nhân của Đức Giêsu bất kể họ đi đâu và sống ở đâu. Đức Kitô là người đầu tiên được sai đi, Người chính là vị “thừa sai” của Chúa Cha (x. Ga 20, 21); và trong tư cách này, Người là “chứng nhân trung thành” của Chúa Cha (x. Kh 1, 5). Tương tự, mỗi người Kitô hữu đều được kêu gọi làm thừa sai và chứng nhân cho Đức Kitô. Và Hội Thánh, cộng đoàn môn đệ của Đức Kitô, không có sứ vụ nào khác ngoài việc mang Tin Mừng đến cho toàn thế giới qua việc làm chứng cho Đức Kitô. Loan báo Tin Mừng là chính căn tính của Hội Thánh…”
Đọc tiếp »

ĐỌC LỜI CHÚA KHI LẦN HẠT (Tông thư kinh Môi Côi)






Đọc tiếp »

Cám dỗ chỉ nghĩ đến việc cứu lấy bản thân : (ĐTC Phanxicô, 20/10/2020)


“Thật là một ân sủng để được cầu nguyện cùng nhau. Tôi xin thân ái chào tất cả các chư huynh với đầy lòng biết ơn, đặc biệt là hiền huynh của tôi, là Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô, và Đức Cha Heinrich, Chủ Tịch Hội Đồng Các Giáo Hội Tin Lành ở Đức.
Bài Tin Mừng trích từ tường thuật về Cuộc Thương Khó của Chúa mà chúng ta vừa nghe xảy ra không lâu trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng trong cuộc thương khó. Bản văn đề cập đến cám dỗ mà Chúa đã phải trải qua trong cơn hấp hối trên thập tự giá. Vào thời điểm tột cùng đau khổ và tình yêu ấy của Ngài, nhiều kẻ trong số những người có mặt đã chế nhạo Ngài một cách tàn nhẫn bằng những từ như: “Hãy tự cứu mình đi!” (Mc 15,30). Đây là một cám dỗ lớn. Nó không tha cho một ai, kể cả chúng ta là những Kitô hữu. Đó là cám dỗ chỉ nghĩ đến việc cứu lấy bản thân và phe nhóm của chính mình, chỉ tập trung vào các vấn đề và các lợi ích của chúng ta, như thể không có gì khác là quan trọng. Đó là một bản năng rất con người, nhưng là một sai lầm. Đó là cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa bị đóng đinh.
Hãy tự cứu lấy mình. Những lời này được nói trước hết bởi “những người đi ngang qua” (câu 29). Họ là những người bình thường, những người đã nghe Chúa Giêsu giảng dạy và những người đã chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Bây giờ họ đang nói với Ngài, “Hãy tự cứu mình đi, hãy xuống khỏi thập tự giá”. Họ không có lòng thương hại, họ chỉ muốn phép lạ; họ muốn thấy Chúa Giêsu xuống khỏi thập tự giá. Đôi khi chúng ta cũng thích một vị thần làm nhiều điều kỳ diệu hơn là một vị thần từ bi, một vị thần đầy quyền năng trong mắt thế giới, là người thể hiện sức mạnh của mình và xua đuổi những kẻ ao ước thấy chúng ta bị khốn đốn. Nhưng đó không phải là Thiên Chúa, nhưng là sản phẩm từ óc sáng tạo của chính chúng ta. Chúng ta thường muốn một vị thần theo hình ảnh của chúng ta, thay vì chúng ta phải trở nên phù hợp với hình ảnh của chính Người. Chúng ta thường muốn có một vị thần giống như bản thân chúng ta, thay vì phải làm cho chính mình trở thành giống như Chúa. Như thế, chúng ta thích thờ phượng chính mình hơn là thờ phượng Thiên Chúa. Cách thức thờ phượng như vậy được nuôi dưỡng và lớn lên thông qua sự thờ ơ đối với tha nhân. Những người qua đường đó chỉ quan tâm đến Chúa Giêsu để thỏa mãn những ước muốn của riêng họ. Chúa Giêsu, bị coi là một kẻ bị ruồng bỏ khi bị treo trên thập tự giá, không còn được họ quan tâm nữa. Ngài ở trước mắt họ, nhưng lại ở xa trái tim họ. Sự thờ ơ khiến họ xa rời thiên nhan đích thật của Chúa...” (ĐTC Phanxicô, 20/10/2020)
Đọc tiếp »
 
Địa chỉ: Hiệp Hòa, Tân Thắng, Hàm Tân, Bình Thuận.