Ads 468x60px

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012


CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN - NĂM B
Ngày 05/8/2012
Tin Mừng:     Ga 6, 24-35
"Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Caphar-naum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giê-su đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các
ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu".

Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Ðây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Ðấng Ngài sai đến".

Họ thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian".

Họ liền thưa Người rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi". Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ".
Ðó là lời Chúa.



Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Xh. 16, 2-4.12-15; Ep. 4, 17.20-24; Ga. 6, 24-35


MỤC LỤC



1. Bánh từ nhà đem đến.

Trong cuộc giao tranh, có một người lính bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục, thế nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá và nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng đều từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân biết chàng nhớ nhà nên anh đã tình nguyện đi tìm nhà của người bị thương để mời cha chàng tới. Đến nhà của người bạn, anh kể rõ hoàn cảnh. Người cha chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một nắm cơm.

Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng chàng vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: Này con, đây là nắm cơm mẹ con đã thổi. Nghe thế chàng bèn tươi ngay nét mặt và nói: Vâng, cơm mẹ con đã thổi xin cho con một miếng. Từ đó chàng bắt đầu bình phục.

Phải chăng đó cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Thực vậy, chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những phiền muộn, những gian nan và khổ đau hằng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: Cha Ta cho các ngươi bánh bởi trời đích thật. Bánh của Thiên Chúa từ trới đến và ban sự sống cho thế gian. Cũng giống như người cha trong câu chuyện đã nói với con mình: đây là cơm mẹ con đã thổi.

Vì thế, vị linh mục nhân danh Đức Kitô cũng nói với chúng ta: Đây là bánh Cha chúng ta ở trên trời đã làm. Thánh Thể là bánh từ trời, bánh ban sự sống, bánh chữa lành thiêng liêng, cũng như trao ban sức mạnh cho tâm hồn. Không có phù phép gì trong nắm cơm của người mẹ. Nhưng có tình yêu là như một phép mầu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng nắm cơm người mẹ đã thổi gói ghém biết bao nhiêu tình thương.

Cũng thế, là những kẻ theo Đức Kitô, chúng ta biết rằng: Tình yêu được ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây và ngay lúc này. Thánh vịnh đã ca ngợi Chúa vì Ngài đã ban manna, một thứ của ăn lạ lùng của Chúa trong cuộc hành trình trở về đất hứa. Manna là hình ảnh của bánh Thánh Thể.

Chúng ta cũng dùng chính những lời người Do Thái đã dùng khi cảm tạ và ca tụng Chúa, vì bánh Thánh Thể Chúa ban như là manna cho tâm hồn chúng ta được sống trong cuộc lữ thứ trần gian này: Chúa đã ban cho họ bánh bởi trời, Ngài làm mưa manna trên họ để trở nên của ăn và Ngài cho họ bánh bởi trời.

Loài người được ăn bánh của Đấng toàn năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Và hôm nay, chúng ta nên nhớ rằng: Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho những tâm hồn mang thương tích, là ánh sáng và sức mạnh cho những kẻ yếu đuối. Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: Thánh Thể là bánh được đem đến từ nhà của chúng ta ở trên trời.



2. Lời ban sự sống.

Ngày xưa, có một người cha muốn chia gia tài cho các con. Ông vốn là một người nghèo, nhưng nhờ chuyên cần làm việc nên đã trở nên giàu có. Vì vậy, khi nằm trên giường bệnh, ông muốn trao phó cơ nghiệp cho người con nào thông minh nhất. Thế là ông cho gọi ba người con đến, trao cho mỗi người hai ngàn đồng bạc và bảo họ phải đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng của ông.

Người anh cả nghĩ rằng đấy chỉ là một công việc dễ dàng, nên anh đã ra chợ và mua về một bó rơm rất lớn. Người con thứ suy nghĩ kỹ hơn một tí, nên đã mua về một bao lông vịt. Còn người con thứ ba, nghĩ mãi nghĩ hoài mà vẫn chưa biết phải làm gì với hai ngàn đồng bạc cầm trong tay. Bỗng một ý nghĩ vụt sáng trong đầu óc thế là anh vội chạy ra tiệm tạp hóa, mua một cây nến và một hộp quẹt.

Ngày hôm sau, cả ba anh đem đến trước giường bệnh của người cha. Anh con cả hì hục vác vào một bó rơm, nhưng rơm không đủ phủ kín một góc nhà. Anh con thứ khoan khoái xách giỏ lông vịt, nhưng lông vịt cũng chỉ phủ được phần nào của căn phòng mà thôi. Giữa lúc người cha đang thất vọng thì anh con út bước vào. Trong chớp nhoáng, anh đánh diêm, thắp nến và căn phòng phủ đầy ánh sáng. Người cha mỉm cười, đắc ý về sự thông minh của anh con út và ông đã trao cho anh ta phần lớn gia tài của mình.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Chúa Giêsu cũng muốn trao phó sự nghiệp của mình cho các môn đệ và Ngài không muốn nó bị tiêu tan. Trọn sự nghiệp ấy phải được lãnh hội, phải được đón nhận và phải được khai thác đúng mức.

Thực vậy, sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng dân chúng trong hoang địa. Lợi dụng vào đó, Ngài đã giới thiệu với họ một thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, đó là mình máu Thánh Ngài, như lời Ngài xác quyết: Thịt Ta là thật của ăn, máu Ta là thật của uống… Thế nhưng dân chúng và cả các môn đệ lại cho là chướng tai gai mắt, không thể nào chấp nhận được, cho nên họ đã rời bỏ Chúa. Trước tình cảnh ấy, Chúa Giêsu đã quay lại và hỏi các tông đồ: Còn các con, các con có muốn bỏ Ta mà đi hay không? Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã tuyên xứng: Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống.

Lời tuyên xưng của Phêrô đã giúp chúng ta vượt lên trên những vấn đề thường ngày như cơm bánh, như sinh kế, như công việc làm ăn, đồng thời đưa chúng ta lên cao để nhìn rõ bản thân, mọi người và mọi sự theo quan điểm của Chúa, hầu thấy được rằng vạn vật tất cả đều do bởi Chúa.

Trong câu chuyện vừa nghe, chúng ta thấy: rơm và lông vịt không thể lấp đầy căn phòng, nhưng ánh sáng của cây nến do người con út thắp lên đã chiếm lĩnh toàn bộ căn phòng. Cũng vậy, với tấm bánh từ trời xuống là chính thịt máu Chúa, tự hiến cho loài người, thì cả nhân loại được tràn ngập tình yêu mến và lòng xót thương của Chúa. Bởi vì, chỉ nhờ ánh sáng đó mà con người mới thực sự được hạnh phúc.


3. Tìm kiếm giá trị tuyệt đối - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.

Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.

Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô - tô. Có ô - tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.

Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.

Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc? Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.

Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giê-su để được ăn bánh. Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Đức Giê-su. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.

Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.    Có một thời người ta nói: “Đi đạo kiếm gạo mà ăn”. Bạn nghĩ gì về câu nói đó?
2.    Mơ ước một đồ vật. Khi được rồi lại chán. Bạn có kinh nghiệm đó không?
3.    Bạn có những khao khát về vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy được thoả mãn phần nào không?


4. Bánh đích thực.

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Dân chúng vẫn còn sôi nổi sau phép lạ bánh hoá nhiều.
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của họ. Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự... Miếng ăn là nỗi lo của người nghèo vùng Galilê. Đó cũng là nỗi lo của hàng tỉ người trên thế giới. Đức Giêsu không trách họ về chuyện này. Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn, bởi lẽ con người không chỉ là thân xác.

Dân chúng vất vả tìm chút lương thực mau qua. Đức Giêsu muốn họ đừng quên thứ lương thực thường tồn nhằm nuôi dưỡng tinh thần và đem lại sự sống vĩnh cửu.

Người dân Galilê chỉ nhớ đến chiếc bánh hôm qua. Họ bị sa lầy và ngừng lại trong phép lạ. Họ không thể đi xa hơn và cũng không mơ ước gì hơn.

Con người hôm nay có nét giống đám đông ngày xưa. Người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn, để thỏa mãn cái đói cấp bách của thân xác. Người giàu thì mê mải với bao tiện nghi đang mời gọi. Họ bị ám ảnh và chạy đua với những mặt hàng mới. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau, đó là đánh mất đi cái đói khát tinh thần, mãn nguyện với cái bụng no, hay với thứ nữ trang đắt giá.
Thật ra, cũng khó dập tắt nỗi khát khao về Tuyệt Đối mà Thiên Chúa đã đặt rất sâu trong lòng người.

Mọi thứ thức ăn trần gian, con người không lấy làm đủ. Người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương. Người giàu dư cơm bánh, nhưng lại cần lẽ sống. Không thiếu những bạn trẻ nhà giàu, có học, có tương lai, nhưng lại thất vọng chán chường, thậm chí rơi vào trụy lạc. Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó... Thiếu cái này thì mọi thứ khác trở thành thừa. Có khi sống sa đọa lại là cách họ biểu lộ cơn đói khác vô cùng về những điều cao cả.

Đức Giêsu khơi dậy những khát khao tốt đẹp đang ngủ quên. Ngài không cho dân chúng thứ manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày họ phải lượm mà ăn.

Ngài cho họ thứ bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống đời đời cho toàn thế giới.
"Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn luôn"
"Xin ông cho tôi thứ nước ấy" (Ga 4, 15).
Con người vẫn đói khát thức ăn tinh thần. Cơn đói này còn kinh khủng hơn cả cơn đói thân xác.

Hãy đến với Giêsu! Hãy tin vào Giêsu! Nếu bạn khao khát Tuyệt Đối thì chỉ Tuyệt Đối mới làm bạn no thỏa. Tuyệt Đối đã hiện diện nơi Đức Giêsu.

Ước chi bạn để cho Ngài nuôi bằng lời giáo huấn, và tin tưởng dấn thân theo Ngài bằng cả cuộc đời.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi nói đến thức ăn tinh thần, người ta nghĩ ngay đến báo chí, sách vở, các phương tiện truyền thông đại chúng như tivi, phim ảnh, video. Bạn đánh giá thế nào về các món ăn tinh thần này? Bạn thích hình thức giải trí nào hơn cả?
Bạn có những khát vọng về mặt vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy mình được mãn nguyện chút nào không?

Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Những lúc con cảm thấy đói, xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn. Khi con khát, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần nước uống. Khi con lạnh lẽo, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần được sưởi.

Khi con bị xúc phạm, xin ban cho con một ai đó đang cần ủi an. Khi thập giá của con trở nên nặng nề, xin ban cho con thập giá của một người khác để cùng chia sẻ.

Khi con túng nghèo, xin dẫn đến cho con một người thiếu thốn. Khi con không có thời giờ, xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát.

Khi con nản chí, xin gởi đến cho con một người cần khích lệ. Khi con chỉ biết nghĩ đến mình, xin xoay chuyển tư tưởng con hướng đến tha nhân.


5. Tìm kiếm Chúa Giêsu. – Guy Morin.

Chúa Giêsu vừa mới nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Lạ lùng thật. Từ thời Môsê tới lúc đó người ta chưa hề thấy một điều lạ nào như vậy. Thế là đám đông coi Ngài như vị giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa và họ chuẩn bị tôn vinh Ngài làm vua. Nhưng vô ích thôi, Ngài đã dự đoán trước chuyện này và Ngài rút lui lên núi một mình trong lúc các môn đệ chèo thuyền sang bờ bên kia. Và giữa đêm khuya Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến gặp các ông.

Ngày hôm sau, dân chúng nhận thấy rằng vị vua của họ đã thoát khỏi tay họ. Ngài đã đặt một cái hố ngăn cách giữa họ và Ngài. Nhưng họ không chịu thua. Họ tức tốc lên thuyền và qua bờ bên kia để “tìm kiếm Chúa Giêsu”.

Thật cảm động khi thấy đám đông này theo đuổi Chúa Giêsu. Họ nhìn nhận Ngài là một Đấng cao cả. Họ cảm thấy Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài và thấy Ngài có quyền uy làm cho họ được no nê, thỏa mãn mọi nhu cầu của họ. Một cuộc tìm kiếm thật xúc động và bi đát, vì những người này tỏ ra không thể gặp Ngài đúng nơi Ngài muốn được gặp. Với tất cả tài khéo léo và nỗ lực họ chèo hết tốc độ hướng về Chúa Giêsu, tuy nhiên về mặt thiêng liêng họ vẫn xa cách Ngài. Họ tìm kiếm Ngài và đã gặp được Ngài, nhưng chỉ gặp Ngài ở một bình diện chẳng mang đến một lợi ích nào, và việc khám phá của họ cũng chỉ là uổng công. Họ đứng trước mặt Chúa Giêsu, nhưng không tiếp xúc được với Ngài.

Chúng ta có khác họ lắm không? Đôi khi chúng ta cũng tìm kiếm Chúa Giêsu ở nơi không có Ngài và gặp được Ngài nơi Ngài không hiện diện. Thường thường ta chờ đợi nơi Ngài những điều khác hẳn với những gì Ngài muốn ban cho ta và những điều ấy đã đánh lạc hướng tìm kiếm của chúng ta.

Tìm kiếm từ phép lạ.
Chúa Giêsu nói với người Do Thái: “Anh em tìm kiếm tôi không phải vì anh em đã nhìn thấy những dấu lạ, nhưng bởi vì anh em đã được ăn no”. Những người Do Thái nhìn Chúa Giêsu như một người cung cấp lương thực. Họ nhìn đúng. Nhưng Ngài trách họ đã không nhận ra ý nghĩa của biến cố này. Họ lợi dụng nó, mà không suy nghĩ gì hơn nữa. Họ dừng lại ở mức độ một việc cứu đói và làm cho dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho họ trở nên vô ích.

Xa hơn nữa, khi Chúa Giêsu tuyên bố rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, người Do Thái lại đòi Ngài làm một dấu lạ để họ tin vào Ngài, họ đòi hỏi những bằng chứng: “Ông làm được dấu lạ nào, để khi nhìn thấy, chúng tôi có thể tin?”. Đi xa hơn nữa họ muốn Ngài tái diễn phép lạ manna trong sa mạc, thứ bánh từ trời mà đến.

Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa liên lỉ ban cho loài người những dấu lạ để khơi dậy niềm tin của họ. Chính Ngài đưa ra sáng kiến và chọn những dấu chỉ của Ngài. Ngài từ chối không chịu để cho con người áp đặt những dấu chỉ mà họ muốn Ngài phải làm, vì có những dấu chỉ không phục vụ cho đức tin. Vậy nên Chúa Giêsu luôn luôn từ chối những cử chỉ biểu lộ quyền năng. Những phép lạ của Ngài không hề muốn cưỡng ép đức tin của ai cả, nhưng khiến họ tự hỏi về Ngài. Ngài không làm dấu lạ theo đơn đặt hàng. Ngài ban cho dấu lạ của Giona nhưng không phải dấu lạ về con cá voi, nhưng là dấu lạ về việc rao giảng của ông. Dân thành Ninivê không đòi ông Giona phải làm một dấu lạ lẫy lừng: Chỉ nguyên lời rao giảng của ông đã hoán cải họ. Lời của ông đã có được hiệu năng nơi chính nó.

Cũng vậy, người Do Thái phải nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, bởi uy tín của Lời Ngài. Ngài từ chối thực hiện một dấu lạ từ trời để làm cho họ tin. Chính nơi nội tâm con người mà Lời Chúa phải phát sinh hiệu quả chứ không phải nhờ một dấu lạ làm quáng mắt họ. Tìm kiếm Thiên Chúa qua những dấu lạ lẫy lừng, sẽ không gặp được Ngài. Vì nơi Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã không muốn tỏ ra mình là Đấng quyền năng và thi thố quyền năng bằng những việc lạ lùng, nhưng chỉ là Đấng Cứu Độ con người mà thôi.

Tìm kiếm, tức là tin.
Bị thách thức bởi sự tiếp đón khá lạnh nhạt của Chúa Giêsu, những người Do Thái kia mới hỏi: “Chúng tôi phải làm gì, để gọi là làm công việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu trả lời: “Công việc của Thiên Chúa, là anh em tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.

Câu hỏi ở số nhiều. Người Do Thái muốn biết Thiên Chúa chờ đợi nơi họ những công việc nào: Những kinh nguyện nào, những việc bố thí nào, những việc dâng cúng nào, v.v… Họ muốn những chỉ thị cụ thể và chính xác. Chúa Giêsu trả lời họ ở số ít. Thiên Chúa chỉ đòi hỏi nơi họ một việc thôi, đó là tin vào Đấng Ngài đã sai đến. Thậm chí không phải là một việc làm nữa, nhưng là tin. Và đó là việc của Thiên Chúa hơn là của con người. Đó thực sự là việc của Thiên Chúa, việc phát xuất từ Ngài. Phần của con người là đón nhận hồng ân Thiên Chúa, ban nơi Chúa Giêsu Kitô.

Dĩ nhiên các việc lành không phải là không đáng kể, thậm chí còn cần thiết nữa. Nhưng sự sống đời đời trước hết là tin theo Chúa Giêsu. Sau đó phục vụ Thiên Chúa và đồng loại.

Ở đây Chúa Giêsu khẳng định vị trí ưu tiên tuyệt đối của đức tin. Tìm kiếm Thiên Chúa, tức là thiết lập với Ngài một mối tương quan sâu xa, tức là cởi mở đối với lời mời gọi mà Ngài gửi đến chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô, điều mà thánh Phaolô gọi là sự vâng phục của đức tin. Hôm nay chúng ta đừng khép kín lòng mình lại, và hãy dành chỗ cho Lời Chúa trong đời sống chúng ta.


6. Suy niệm của Charles E. Miller.

TIN VÀO ĐỨC KITÔ VÀ NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỨC TIN NƠI THÁNH THỂ
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng”)
Vào Chúa Nhật trước chúng ta đã bắt đầu đọc chương 6 của Phúc Âm theo thánh Gioan. Một chương gồm có bẩy mươi mốt câu, là chương dài thứ hai trong Tân Ước sau chương thứ nhất của thánh Luca gồm có tám mươi câu. Chương đầu tiên của thánh Luca nói về những biến cố dẫn đến việc Chúa Giêsu được sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Chương thứ sáu của Thánh Gioan hé mở giáo huấn của Chúa Giêsu tuyên xưng mục đích Ngài đến và tỏ hiện những đặc ân của Ngài qua bí tích Thánh Thể. Chương này của thánh Gioan là chương dài trong phụng vụ, đã được chia làm năm phần qua năm Chúa Nhật. Để thấu hiểu ý nghĩa tuyệt vời của bức ranh mà thánh Gioan đã minh hoạ, thật cần thiết chúng ta phải trở lại nhìn chương này như một tổng thể.

Câu chuyện bắt đầu bằng Chúa Nhật trước với phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúa Giêsu đã nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và 2 con cá, điều quan trọng của biến cố này được nhìn nơi sự kiện, đây không phải là phép lạ duy nhất của Chúa Giêsu đã được kể lại trong bốn Phúc Âm. Cung cách đã được tường thuật bởi mỗi soạn giả Phúc Âm làm cho người ta tin và nghĩ về Thánh Thể. Thí dụ thánh Gioan trong câu nói rằng, Chúa Giêsu đã dâng lời tạ ơn trước khi Ngài bẻ bánh. Lời nguyện gốc tiếng Hy lạp là: “Dâng lời tạ ơn, là Thánh Thể, là hy tế tạ ơn”. Điểm chính yếu của câu chuyện là Chúa Giêsu đã để tâm đến một điều gì đó hơn là chuyện thực phẩm bình thường.
Chúa Nhật này là một khung cảnh đã xảy ra trên bờ biển Galilê, nơi mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ tại hội đường Caphanaum, giảng một bài giảng về hy tế Thánh Thể. Chúa đã bắt đầu bài giảng lời kêu gọi tin vào chính Người, vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến trong trần gian. Đức tin này thật cần thiết để chấp nhận hy tế Thánh Thể tuỳ thuộc hoàn toàn vào lời của Chúa Giêsu.
-     Vào Chúa Nhật thứ ba bài giảng được tiếp tục, trong phần này, Chúa Giêsu đã làm một cuộc chuyển đổi từ đức tin vào Người đến đức tin là đặc ân của Người là hy tế tạ ơn. Một đức tin phải dẫn tới một điều khác.
-     Vào Chúa Nhật thứ bốn Chúa Giêsu đã tuyên bố một cách công khai và rõ ràng giáo lý của Người, Ngài tuyên bố với lời lẽ xác quyết: “Bánh mà Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống”, sau những phản ứng tiêu cực của đám đông Ngài đã nói một cách mạnh mẽ hơn nữa: “Thịt của Ta thật là thức ăn và Máu Ta thật là của uống”.
-     Chúa Nhật cuối cùng đã giới thiệu một thách đố. Mọi người có thể không nhiệt tình với lời hứa, với Chúa Giêsu. Một ngày kia họ đã nghe lời giáo huấn của Người, họ phải chấp nhận nó hoặc từ bỏ nó. Thánh Gioan nói với chúng ta rằng: “Nhiều môn đệ đã lấy làm chướng tai và không còn đi theo Ngài nữa” Ngay cả các môn đệ cũng đã có những phân vân giao động trong tâm trí. Chúa Giêsu đã hỏi họ: “Các con có muốn ra đi không? Có muốn bỏ Thầy không?” Phêrô trả lời: “Lạy Thầy bỏ Ngài chúng con biết đi theo ai, chính Ngài mới có những lời ban sự sống đời đời”.

Cố gắng đọc toàn thể chương sáu trong từ thế ngồi. Điều đó sẽ giúp cho các bạn thấu triệt được hy tế Thánh Thể mà phục vụ đã hé mở cho chúng ta qua ba Chúa Nhật kế tiếp.


7. Chúng ta sống nhờ sự vật hay nhờ một ai?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Bài giảng về bánh sự sống cho ta thấy một cách đặc biệt sống động một đặc điểm của phúc âm thứ tư. Thánh Gioan đã chuyển những gì Đức Giêsu đã nói trước các thính giả kém cỏi hơn thành những dòng chữ cho thích hợp với các độc giả cuối thế kỷ I. thực tế, những gì Thánh Gioan kể lại, là do Đức Giêsu đã nói thật sự, nhưng với từ ngữ, những công thức, những ráp nối được Thánh Gioan viết lại. Thánh Gioan đã trung thành chuyển đạt lời rao giảng của Đức Giêsu, vì ngài đã viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, nhưng chuyển đạt không phải bằng cách thức thâu phát băng nhựa. Với tư cách là một môn đệ trung thành đã suy nghĩ nhiều, ngài đã tiêu hóa lời giảng dạy của Thầy, rồi ngài truyền đạt lại lời giảng dạy này xuyên qua những từ ngữ của riêng ngài, cách thức ngài diễn tả, lề-lối ngài suy tư. Tóm lại ngài vừa là chứng nhân, vừa là người được linh ứng.

Bài giảng về bánh sự sống trình bày ý nghĩa tiềm ẩn trong phép lạ bánh hoá nhiều Đức Giêsu đã muốn cho một dấu hiệu. Ngài đã quyết định làm một công việc với ý muốn chứng minh rằng chính Chúa Cha đã làm công việc này xuyên qua Ngài. Như thế Ngài muốn cho thấy chính Ngài là Đấng đem lại sự sống vĩnh cửu cũng như của ăn cần thiết cho đời sống ấy. Sau Phục Sinh, các Kitô hữu sẽ hiểu rằng của ăn này, bánh sự sống này là Thánh Thể.

Không nhấn mạnh đến lối giải thích Thánh Thể về đoạn văn này, chúng ta hãy xem điều được trình bày như là 1 lời mời gọi chúng ta tin.
1) ‘Chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực’.
Người Do thái vừa mới nhắc đến bánh man-na từ trời xuống. Đức Giêsu lợi dụng cơ hội để cho thấy việc ban bánh man-na kia nay đã bị vượt qua bằng một ơn huệ cao cả hơn vô cùng. Từ một của ăn thuần tuý thể xác, nay người ta đến một của ăn thiêng liêng, của ăn đem lại sự sống đời đời. Bánh từ trời xuống, không phải chỉ là cái gì vật chất. Bánh này là Đấng Chúa Cha ban cho nhân loại, chính là Đức Giêsu Ngài không đến qua trung gian Môsê, Ngài trực tiếp là hồng ân của Thiên Chúa. Ngài đến để ban sự sống cho thế gian và Ngài thật sự là của ăn cho đời sống ấy.

Đời sống thâm sâu của ta làm bằng gì? Của ăn của nó là gì? Chúng ta sống nhờ các sự vật hay nhờ một Con Người? Chân lý của chúng ta là một tổng hợp các ý tưởng hay là một sự dẫn thân cho Đức Giêsu Kitô?

2) ‘Chính Ta là bánh sự sống’.
Trong phúc âm Thánh Gioan, Đức Giêsu đã nhiều lần nói ‘Ta là’. Ngài nói: ‘Ta là ánh sáng, là kẻ chăn chiên nhân lành, là cửa chuồng chiên, là sự sống lại và là sự sống, là cây nho đích thật’. Tất cả những chỉ dẫn trên dưới con mắt của người Do thái đều có giá trị ơn sủng của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng chính Ngài, hôm nay là ơn huệ đích thật và vĩnh viễn của TC.

Khi nói: ‘Ta là bánh sự sống, chỉ một mình Ta là bánh sự sống’. Đức Giêsu biết Ngài sẽ gây ra việc hiểu lầm, cứng lòng tin và ngay cả sự vấp phạm. Thật vậy, cách nói ‘Ta là’ khi nói đến bánh sự sống, ánh sáng… gợi lên trong não trạng các thính giả Do thái một ý tưởng tuyệt đối. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể nói ‘Ta là’. Con người chỉ có thể nói: tôi là người này, người nọ, nhưng không ai có thể nói: Ta là bánh, là ánh sáng, là sự thật, là sự sống. Nhưng đó lại là điều Đức Giêsu làm. Một quả quyết như thế gây ra vấp phạm hoặc niềm tin. Chúng ta được may mắn thuộc thành phần những kẻ đáp lại bằng niềm tin.


8. Dấu chỉ tình thương.   (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong trận nội chiến ở Tây Ban Nha, một anh lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Anh có hy vọng sẽ được bình phục. Nhưng anh nhất định không chịu ăn uống gì cả. Các y tá đã tìm mọi cách thuyết phục nhưng anh vẫn từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân biết được ý anh muốn được gặp mặt cha mẹ, nên tình nguyện đi tìm nhà của anh bạn thương binh để báo tin cho cha mẹ anh đến thăm. Khi người cha chuẩn bị lên đường thì mẹ anh gói cho con bà một ổ bánh. Anh thương binh vui mừng vì được gặp mặt cha mình, nhưng anh vẫn chưa chịu ăn. Khi cha lấy từ trong túi xách gói bánh và nói: “Này con, đây là ổ bánh mẹ con đã làm”. Anh thương binh liền bật dậy tươi nét mặt thốt lên: “A! bánh mẹ con làm, cho con ăn một miếng đi!” Từ đó anh mới chịu ăn lại và cũng bắt đầu bình phục.

Thưa anh chị em,
Không có phù phép nào trong tấm bánh của người mẹ. Nhưng có tình yêu là phép mầu. Bởi kinh nghiệm, anh biết rằng tấm bánh mẹ anh làm gói ghém bao tình yêu thương mà mẹ dành cho anh. Cũng thế, tấm bánh Chúa Giêsu phân phát cho đám đông dân chúng ăn no nê là dấu chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa đối với dân chúng đang đói. Đáng lý ra họ phải nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài qua tấm bánh mà họ nhận được, chứ không đòi hỏi cái gì khác nữa. Nhưng đàng này, sự cứng lòng và đam mê vật chất đã khiến họ không thể nhận ra mối tương quan giữa tấm bánh và con người làm ra bánh hay nhân ra bánh nhiều, cũng chẳng nhận ra ý nghĩa của việc Chúa bẻ bánh và chia sẻ cho họ ăn no: Ngài đã chia sẻ tấm bánh đó như là biểu tượng của chính Thân Thể Ngài sẽ bị bẻ ra, tan nát, bầm dập trong cuộc khổ nạn và phục sinh. Vì thế, Chúa Giêsu phải nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Thì ra, họ chạy theo Chúa Giêsu chỉ vì cơm bánh chứ không phải vì tin Chúa Giêsu là Bánh đích thực ban sự sống đời đời. Dấu lạ bánh mời gọi niềm tin, chứ không phải để tin thì cần phải có dấu lạ. Chẳng hạn, những người con biết nhận ra mồ hôi nước mắt, công lao của cha mẹ trong miếng cơm mình ăn, sẽ chẳng bao giờ đòi hỏi những món ăn đặc sản, ngon miệng, đắt tiền, mới tin vào tình thương của cha mẹ. Bởi vì họ đã tin vào tình thương của cha mẹ rồi, và chính nhờ niềm tin đó mà họ đón nhận chén cơm thanh đạm với tất cả niềm tri ân. Trái lại, những người con suốt đời chỉ biết đòi hỏi hết ăn ngon đến mặc đẹp, thì chẳng bao giờ thấy được tình thương của cha mẹ, cho dù cha mẹ có đáp ứng những đòi hỏi của họ tới mức nào đi nữa. Bởi vì cái họ yêu, các họ tìm, không phải là cha mẹ, nhưng là cơm áo và của cải vật chất.

Không phải tấm bánh làm ra tình thương, mà chính tình thương làm ra tấm bánh. Thế giới chúng ta ngày ngay thực ra đã không thiếu và không bao giờ thiếu cơm bánh, nhưng thiếu tình thương, nên bánh đã không được bẻ ra cho hết mọi người hay nói đúng ra, người ta chỉ bẻ ra cho những người sẵn sàng làm nô lệ cho họ: bánh cho người nô lệ thì có, nhưng bánh của tình thương dành cho những con người tự do thì không. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thứ bánh của tình thương. Thứ bánh của tự do, khi Ngài bẻ bánh phân phát cho người ta và dặn dò: “Anh em phải ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. Người Do Thái sẵn sàng làm nô lệ, miễn sao bụng được ăn no, nhưng Chúa Giêsu thì lại muốn cho con người được tự do, nên Ngài đã từ chối không làm phép lạ cho bánh từ trời rơi xuống, mà chỉ cho nhân loại thứ bánh của niềm tin, đó chính là bản thân Ngài: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh, ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.

Anh chị em thân mến,
Đói khát, đó là thảm trạng và là nỗi ám ảnh thường xuyên nhất của nhân loại cho đến hôm nay. “No, đủ” vẫn là giấc mơ của hàng trăm triệu con người… Trước khi nói đến Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu đã chạnh thương đám dân nghèo khổ đi theo Ngài, họ đói, họ không có bánh ăn: “Anh em hay cho họ ăn đi” (Mc 6,37). Lời này mời gọi chính chúng ta hãy cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Và khi đã khởi sự cảm thông, chia sẻ cơm bánh với họ. Ngài đã cảm thông và chia sẻ, nhưng không chỉ dừng lại ở đó. Ngài đã mạc khải cho họ chân lý về Bánh Hằng Sống, nhưng không hề lãng quên, hay nhắm mắt trước cơn đói đang dày vò họ. Đó là hai khía cạnh gắn liền với nhau không thể tách rời hoặc thiếu một trong hai trong đời sống đạo của chúng ta. Trên một bình diện khác, bình diện nhân linh, đói khát quả thực là một đặc tính riêng biệt của con người, nếu hiểu đói khát là khả năng khai mở, tiếp nhận, khát vọng, thì thực sự không có điều gì có thể lấp đầy nỗi khao khát vô hạn của con người. Vì tự thân con người đã làm một “khao khát vô biên”, “khao khát tuyệt đối”, và chỉ con người mới có khả năng đó. Thánh Augustinô đã nói lên điều này một cách thấm thía từ kinh nghiệm sống của Ngài: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con còn thao thức mãi cho tới khi được an nghỉ trong Chúa” (Tự thuật). Chúa Giêsu hẳn muốn khơi dậy nơi chúng ta niềm khao khát này khi Ngài nói: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho anh em” (Ga 6,27).

Anh chị em thân mến,
Nếu sự đói khát là một mối phúc trong tám mối phúc thật: “Phúc cho người đói khát sự công chính”(Mt 5,6) thì phải chăng, “không biết đói khát”, tự mãn với chính mình, không còn muốn nâng cao khát vọng của mình, là một “mối hoạ” không những cho bản thân mà còn cho gia đình và cho cộng đồng nhân loại. “Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”: Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Ngài. Vì thế kẻ đến nhận lãnh “Lời Hằng Sống” và “Bánh Sự Sống” khác nào người được đưa vào “kho tuý luý yêu thương”- như kiểu nói của Thánh Basiliô- “Lạy Chúa là thức ăn, thức uống của con. Càng ăn, con càng đói; càng uống, con càng khát; càng sở hữu, con lại càng ước ao”. “Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi không thôi… Mỗi lần rước lấy Tấm Bánh Hằng Sống chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Ngài và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.


9. Bánh từ nhà đem tới - Gm. Arthur Tone.

Trong trận chiến ở Tây Ban Nha, một người lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá các nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân của chàng, biết chàng nhớ nhà, nên anh tình nguyện đi tìm nhà của người bạn, anh kẻ rõ hoàn cảnh. Người cha của người bị thương chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một tấm bánh. Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng anh vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: “Này con, đây là tấm bánh mẹ con đã nướng”. Người con tươi nét mặt nói: “Vâng, bánh mẹ con làm, cho con một miếng”. Từ đó, chàng bắt đầu trên đường bình phục.

Bạn và tôi ở trong câu chuyện đó. Chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những điều phiền muộn, những gian nan và những khổ đau hàng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Cha Ta cho anh em Bánh bởi trời đích thực. Bánh của Thiên Chúa từ trời đến và ban sự sống cho thế gian”. Cũng giống như người cha trong câu chuyện nói với con mình “Đây là bánh mẹ con đã làm”. Bởi vậy, vị linh mục của bạn nhân danh Đức Kitô nói với bạn: “Đây là Bánh Cha bạn ở trên trời đã làm”.

Thánh Thể là bánh từ trên trời, bánh ban sự sống cho chúng ta, sự sống thiêng liêng thật, sự sống của Thiên Chúa. Bánh chữa lành thiêng liêng, ban sức khỏe và sức mạnh thiêng liêng.
Không có phù phép trong tấm bánh của người mẹ. Nhưng có tình yêu là phép màu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng tấm bánh mẹ chàng nướng gói ghém bao tình thương. Cũng thế, chúng ta những kẻ theo Chúa Kitô biết rằng Tình yêu ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây, trong giờ này.

Trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta lặp lại những lời của bài ca trong Cựu Ước, ca ngợi Chúa vì Chúa ban Mana, của ăn lạ lùng Chúa ban cho dân Người trên hành trình về đất hứa. Mana là hình ảnh bánh Thánh Thể chúng ta dùng cũng những lời người Do Thái cổ đã dùng khi cảm tạ và ca ngợi Chúa. Vì bánh Thánh Thể Chúa ban trong giờ phút này.
“Chúa đã cho họ bánh bởi trời”
“Người làm mưa Mana trên họ để làm của ăn
và Người cho họ bánh bởi trời”.

Loài người được ăn bánh của Đấng Toàn Năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Hôm nay tôi gợi ý chúng ta nhớ Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho tâm hồn bị thương, là ánh sáng và sức mạnh cho tâm trí yếu đuối.

Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: “Thánh Thể là bánh đem từ nhà tới, từ nhà của chúng ta ở trên trời”.

Xin Chúa chúc lành bạn.


10. Ta là Bánh Hằng Sống - Noel Quesson.

Luy Latô (Louis Lateau), một người Bỉ được in năm dấu vào năm 1868. Từ nhỏ, cô đã bị đau yếu, ít ăn uống, nhất là sau khi được in năm dấu thánh, cô chỉ còn ăn chút ít, mỗi ngày một mẩu bánh nhỏ. Và kể từ 1871 trở đi, suốt bảy năm, cô không ăn uống gì nữa, chỉ còn rước lễ hàng ngày.

Thời gian gần đây, có những người được ơn lạ. Trong số những người đó, có Têrêxa Niu-man và Matta Robin đã không ăn uống trong nhiều chục năm. Có lẽ Chúa Giêsu muốn chúng ta nhớ điều này: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh…”. Dĩ nhiên hai cuộc sống nói ở đây là khác biệt, nhưng đều quan trọng cho một đời người.

Trong sinh hoạt trần thế của con người, có lẽ những bận tâm, những nỗ lực tìm kiếm của nuôi thân đã mất nhiều công sức và thời giờ hơn cả. Chúa nhìn ra tâm trạng đó ngay trong đám dân đi theo Người: “Các ngươi tìm Ta không phải vì xem thấy dấu lạ nhưng vì đã được ăn bánh no nê”. Và có những người khi nghe Chúa nói tới bánh là họ hiểu ngay theo nghĩa đen. Cũng như người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp, nghe Chúa nói về nước, bà xin ngay: “Xin cho tôi nước đó để tôi khỏi phải đi múc nước ở đây”.

Tâm tình này là đúng. Nhưng ngoài nhu cầu thân xác, còn có nhu cầu tâm linh nữa. Nhu cầu tâm linh hay lương thực nuôi hồn là gì? Lương thực nuôi hồn là lời Chúa, là chính Chúa. Chỉ khi nào con người tìm về với Chúa, mới được no thỏa, dù có ý thức điều đó hay không. Ngôn sứ Amos đã nói về niềm khát khao Chúa như một cơn đói trầm trọng: “Sẽ có lúc cả xứ bị đói, không phải là đói cơm bánh, không phải là khát nước, mà là đói khát lời Chúa” (Am 8,11). Ngôn sứ Giêrêmia cũng cảm nghiệm điều đó: “Gặp được lời Chúa, tôi đã nhai đã nuốt vào. Lời Chúa làm no thỏa hồn tôi và làm tôi hân hoan” (Gr 15,16). Và chính Chúa cũng đã nói với các môn đệ: “Thầy có một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của người” (Ga 4,32-34), Bởi thế, Chúa nói: “Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta, sẽ không phải đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.

Lạy Chúa, chúng con kiếm tìm Chúa như tìm kiếm của ăn đích thực cho tâm hồn. Chỉ một mình Chúa, mới đem lại cho chúng con sự sống và niềm vui thực.


11. Không hư nát.

Một hôm, Napoleon, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một cửa sổ. Bất chợt, Napoleon chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn: “Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không?”. Người bạn trả lời: “Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả”. Napoleon nói: “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi”. Rồi Napoleon nói tiếp: “Những người nhìn bầu trời đen mà không thấy gì thì mới chỉ sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen”. Lời nhận xét trên đây của Napoleon là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người đã tìm đến với Ngài. Ngài nói: “Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Khi quả quyết điều trên đây, Chúa Giêsu phân biệt hai lý do khiến người ta tìm đến với Ngài, đó là để thấy dấu lạ và được ăn bánh no nê. Bình thường chúng ta hiểu hai lý do đó là một, bởi vì làm sao có đủ bánh để cho hàng ngàn người ăn ở nơi vắng vẻ nếu không phải là một phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài thấy rõ tâm tư của những người tìm đến với Ngài, ở đây chỉ là vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.

Chắc có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ cho rằng: những người tìm đến với Chúa để được ăn bánh nữa là những người thực tế. Điều đó đúng, vấn đề cơm ăn áo mặc, vấn đề nhà ở để che nắng che mưa, đó là những vấn đề ưu tiên của con người, những vấn đề thiết thân cho cuộc sống, ở đời này ai mà không quan tâm đến những vấn đề ấy. Nhưng ở đây, khi chê bai những người tìm đến với Ngài, Chúa Giêsu muốn nói với họ rằng: ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Vấn đề này cũng cần phải được giải quyết. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”.

Vì thế, nếu về phương diện vật chất và thể lý, để thỏa mãn những nhu cầu, cần phải làm việc vất vả, thì về phương diện tinh thần và tâm linh, con người cũng phải ra công làm việc. Đúng thế, sống ở đời, chúng ta phải làm việc, và làm việc với lý do gì hay vì lý do gì chăng nữa, thì trên hết vẫn phải là lý do vì lương thực không hư nát, vì chỉ có lương thực ấy mới còn lại trong cõi vĩnh hằng, cõi hằng sống. Đó là những việc lành, việc tốt, việc bác ái yêu thương, việc thông cảm tha thứ… Chỉ có những việc ấy mới theo chúng ta về thế giới bên kia mà thôi.

Như vậy, công việc làm ăn không phải là không quan trọng. Nhưng nếu ai chỉ miệt mài làm việc mà bỏ quên Nước Trời, quên hạnh phúc đích thực đời sau của mình, thì Chúa bảo: họ sẽ mất tất cả. Tại Pháp, có một thương gia rất giàu, phương châm của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông bảo gia nhân đem bút giấy cho ông. Cầm bút, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông: “Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.”

Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Thánh Gióp nói: “Từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng và lại trần truồng để trở về đấy”. Thánh Phaolô cũng nói: “Vào thế gian ta chẳng mang gì, thì cũng không thể mang gì khi phải ra đi”. Và lời Chúa Giêsu: “Tất cả mọi sự sẽ qua đi, chỉ có việc lành mới tồn tại”.

Chúng ta đang sống, chúng ta đừng quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải luôn nhớ mối tương quan ấy. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn hay to lớn, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có được giá trị vĩnh cửu. Chỉ sống như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi”.



12. Nhiều cơn đói.

Năm 1885, Vincent Van Gogh đã đến thăm một viện bảo tàng ở Amsterdam để xem một bức tranh nổi tiếng của Rembrandt, bức “Cô dâu người Do thái”. Sau khi nhìn ngắm bức tranh ông nói “Tôi sẵn sàng đổi mười năm của đời mình để được ngồi trước bức tranh này trong hai tuần, với lương thực là vụn bánh mì khô. Cơn đói đầu tiên của tôi không phải là đói thức ăn, dù tôi thường nhịn đói nhiều ngày. Lòng khao khát hội họa của tôi còn mạnh hơn nhiều, đến nỗi khi tôi có được ít tiền, tôi lập tức đi săn lùng những mẫu tranh cho đến khi tiền hết sạch”.

Không chỉ có thể xác làm người ta đói, tâm hồn và tinh thần cũng làm người ta đói. Bánh làm bằng vật chất không bao giờ có thể thỏa mãn tâm hồn con người. Nuôi dưỡng một con người không giống như việc vỗ béo gia súc. Chúng ta là những thụ tạo không chỉ có một cơn đói nhưng có hàng trăm cơn đói. Ngoài cơm bánh, chúng ta còn đói nhiều thứ.

Không phải mọi khao khát của chúng ta cần được thỏa mãn. Một số là dục vọng nếu được thỏa mãn, cơn đói và sự đòi hỏi càng lớn hơn. Chúng ta phải nhận thấy rằng những dục vọng ấy tồn tại trong chúng ta. Nhưng chúng ta hãy giữ lại những khao khát cần được thỏa mãn nếu chúng ta muốn nuôi dưỡng xứng đáng như những con người và như những con cái của Thiên Chúa.

Chúng ta khao khát được cảm thấy mình quan trọng. Không ai muốn mình chẳng là gì cả. Chúng ta đều muốn mình trở nên quan trọng, dù chỉ quan trọng đối với một người.
Chúng ta khao khát được chấp nhận. Nếu chúng ta không được chấp nhận, chúng ta hầu như mất khả năng nhận thức chính mình.

Chúng ta khao khát những mối quan hệ. Không có các mối quan hệ, chúng ta tha hồ bị những cơn gió rét của đau khổ và cô đơn rung chuyển. Chúng ta giống như một cây trơ trọi trên đỉnh đồi.

Chúng ta khao khát đức tin – vì chấp nhận những niềm tin tích cực hướng dẫn chúng ta. Nếu không thì chúng ta giống như chiếc tàu không có hải đồ và hải bàn.

Chúng ta khao khát niềm hy vọng. Gạt bỏ niềm hy vọng là tiếp tục đình chỉ sự khao khát tinh thần.

Chúng ta khao khát tình yêu. Nếu niềm khao khát này được no thỏa thì hầu hết mọi khao khát khác của chúng ta sẽ biến mất.

Tuy nhiên, có thêm một cơn đói nữa, một khao khát sâu xa hơn và là nền tảng cho mọi khát vọng khác của chúng ta, bao gồm khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sự sống đời đời. Nói cách khác, đó là khao khát Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khao khát này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Nó cứu chúng ta khỏi sự trì trệ và giữ cho dòng sông chảy ra biển cả.

Hàng ngày chúng ta thấy người ta xuất hiện trong các siêu thị với những xe đẩy hàng đầy thức ăn và đồ uống. Nhưng chúng ta không tìm thấy thứ lương thực khác đó trong các siêu thị. Nếu có thể, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng tốt. Chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta lương thực ấy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn những khao khát sâu xa nhất của chúng ta.

Bánh Manna đã nâng đỡ đời sống trần gian. Lương thực của Đức Giêsu nâng đỡ đời sống trường tồn. Đối với chúng ta – những người du hành trên con đường thời gian – đều được một khát vọng không thể cưỡng lại được hướng dẫn đến trường sinh. Đức Giêsu đến với một lời hứa: “Ai ăn bánh mà tôi ban cho sẽ được sống muôn đời”. Ai lại không muốn ăn bánh ấy?



13. Trông cậy.

Việc Thiên Chúa nuôi dân trong sa mạc bằng Manna được xem như ví dụ cổ điển về sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với dân Người. Cho dù manna là một hiện tượng tự nhiên thì sự xuất hiện của manna vẫn là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cho dân. Có thể có một thứ lương thực ngọt và dẻo như nhựa do một loại cây nào đó trong sa mạc tiết ra ban đêm và đông lại khi gặp cái lạnh. Người ta phải nhặt chúng vào sáng sớm trước khi nó tan chảy trong sức nóng ban ngày. Chim cút cũng thế: chúng di cư từ Bắc Au đến Châu Phi, và bắt buộc phải đáp xuống nghỉ đêm trong sa mạc, ở đó chúng dễ dàng bị bắt. Thiên Chúa nói với Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời như mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày ấy; Ta muốn thử lòng chúng như vậy, xem chúng có tuân theo luật của Ta hay không”. Chúng ta phải giải thích những lời ấy như thế nào?

Nếu chúng ta hỏi một tín hữu bình thường xem người ấy có tin Chúa là Thiên Chúa duy nhất của thế gian không, người ấy sẽ không ngần ngại trả lời: “Dĩ nhiên rồi”. Nhưng nếu bạn hỏi người ấy có phải Thiên Chúa sẽ thấy hết mọi nhu cầu của người ấy để người ấy phó thác mọi sự cho Người thì người ấy sẽ lùi lại như muốn nói: “Vâng tôi chưa đạt đến trình độ đó”.

Chúng ta phải phân biệt giữa đức tin và phó thác hay tín thác. Dù chúng liên kết nhau chặt chẽ nhưng chúng không đồng nghĩa. Người nào tin tưởng vững vàng thì phó thác trọn vẹn. Nhưng nếu một người nào đó không phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa, thì niềm tin của họ rất yếu. Kinh nghiệm sa mạc là một cơ hội cho dân Do thái gần gũi với Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy dạy họ trông cậy vào Thiên Chúa, tín thác vào Đấng Quan Phòng mỗi ngày. Vì thế, Thiên Chúa bảo họ không được tích trữ bánh manna và bảo đảm họ sẽ có phần của ngày mai. Họ chỉ được lượm đủ nhu cầu của ngày hôm nay. Ngày mai, Thiên Chúa sẽ lại cung cấp cho họ.

Đức Giêsu cũng giảng dạy cùng một chân lý. Người nói chúng ta phải cầu nguyện “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Giáo huấn này nghe có vẻ lạ lùng, nếu không nói là điên rồ đối với những người hoàn toàn tín nhiệm vào các tài khoản tiết kiệm, các chính sách bảo hiểm. Chúng ta không dành đủ chỗ cho Thiên Chúa. Đó là đi ngược lại với cách sống đức tin.

Qua mọi lời nói và hành động, không phải bánh manna đã nâng đỡ dân Do thái trong suốt thời gian ở sa mạc. Chính đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa đã nâng đỡ họ. Đây là lương thực có giá trị với chúng ta – Đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa sẽ nuôi dưỡng chúng ta trong mọi lúc nhưng đặc biệt trong những khi bị thử thách. Không phải chính chúng ta gìn giữ đức tin mà chính đức tin gìn giữ chúng ta. Dù đời sống có khó khăn như thế nào đối với những người tín thác vào Thiên Chúa và sống mỗi ngày, mỗi lúc thì việc bánh manna rơi xuống mỗi ngày không có gì là ghê gớm lắm.



14. Đức Giêsu là Bánh trường sinh – JKN.

Câu hỏi gợi ý:
1.    Con người khác và hơn con vật ở những khả năng nào? Con người giống với Thiên Chúa ở chỗ nào? Vậy con người phải đặc biệt quan tâm phát triển những khả năng nào?
2.    Con người thường tìm hạnh phúc nơi những gì? Khi đạt được những thứ ấy, con người đã thỏa mãn chưa? hay họ lại khao khát những thứ khác? Như vậy, tìm hạnh phúc nơi những thứ ấy có phải là cách khôn ngoan không? Tìm hạnh phúc ở đâu mới là khôn ngoan?
3.    Đức Giêsu là «bánh trường sinh». Vậy ta phải làm gì với Đức Giêsu để đạt được «bánh trường sinh» ấy? Có phải là rước lễ? Những người rước lễ có ai đạt được «bánh trường sinh» chưa?

Suy tư gợi ý:
1. Đời sống tâm linh, cấp độ sống cao nhất của con người
Tất cả mọi sinh vật đều có sự sống. Nhưng sự sống ấy có nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự sống càng cao thì càng có những khả năng đặc biệt mà sự sống ở bậc thấp hơn không có, hay có rất ít. Cùng là sống, nhưng cái sống của một cây cổ thụ khác với cái sống của một cây cỏ, của một bụi gai; cái sống của con sư tử, một con cá heo khác với cái sống của con chó, con heo, và càng khác với cái sống của con giun, con dế. Cao hơn nữa là cái sống của con người. Và cao hơn cái sống của con người là cái sống của thiên thần, và cao nhất là cái sống của Thiên Chúa, nguồn phát sinh mọi sự sống.
Loài thực vật có khả năng tự dinh dưỡng, tự thích ứng, tự lớn lên, tự sinh sản, nhưng khả năng cảm giác rất ít. Loài động vật có đủ mọi khả năng của loài thực vật, nhưng khả năng cảm giác cao hơn rất nhiều, và còn có khả năng tự di chuyển. Nhưng các loài thú có rất ít trí tuệ, khả năng ý thức, không có khả năng tự quyết định hay sự tự do, chỉ biết làm theo bản năng. Còn con người có nhiều khả năng vượt rất xa loài động vật. Con người có đời sống tinh thần, trí thức, tình cảm, có khả năng tự do và tự quyết định, và nhất là có đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh càng phát triển thì con người càng khác xa con vật và càng giống Thiên Chúa hơn.

2. Đời sống tâm linh phát triển và hạnh phúc đích thực
Con người chỉ được hạnh phúc tràn đầy khi đạt được sự phát triển cao nhất của mình. Con người có đời sống tâm linh mà các loài động vật khác không có. Khi phát triển những khả năng cao cấp của mình như tinh thần, tình cảm, trí tuệ, thì con người có khả năng hạnh phúc cao hơn tất cả mọi loài, nhưng hạnh phúc ấy chưa tràn đầy, chưa đạt tới viên mãn. Chỉ khi nào phát triển tâm linh đầy đủ, con người mới đạt được giá trị cao nhất của mình, và mới được hạnh phúc một cách viên mãn.

Chưa được hạnh phúc viên mãn, con người sẽ không bao giờ thỏa mãn. Khi chưa đạt được hạnh phúc viên mãn, thì dù có đạt được những điều mình đang mong ước, con người cũng chỉ tạm hạnh phúc trong chốc lát, để rồi sau đó lại khao khát một cái khác cao hơn; nếu không đạt được cái cao hơn đó thì con người lại rơi vào đau khổ. Những khao khát bình thường ấy chỉ giống như những ly nước, những chén thức ăn. Uống xong ly nước ấy tuy đã khát, ăn hết thức ăn ấy tuy no và hết đói, nhưng rồi sẽ lại khát, lại đói nữa: «Ai uống nước này, sẽ lại khát» (Ga 4,13). Cứ thế, chẳng bao giờ con người hết đói và hết khát với những thức ăn thức uống bình thường ấy. Và con người cứ phải kiếm nước kiếm thức ăn mãi. Còn đói khát những ước vọng bình thường ấy, con người còn phải gặp biết bao đau khổ.

Những hạnh phúc do sự thỏa mãn những ước vọng ấy chỉ giống như một người bị bệnh ngứa, khi ngứa lên thì gãi hay hơ nóng chỗ ngứa, tuy đã ngứa nhưng chỉ được một thời gian rất ngắn, để rồi sau đó sẽ còn ngứa dài dài nữa. Chỉ khi nào chữa cho hết bệnh ngứa, thì con người mới thật sự thoải mái. Cũng vậy, chỉ khi nào hết ích kỷ, biết sống vị tha, có đời sống tâm linh phát triển, con người mới thật sự hết đau khổ và được hạnh phúc đích thật, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.

3. Con người mải mê tìm những hạnh phúc chóng qua
Khi con người chưa cảm nghiệm được hạnh phúc đích thực của một tâm linh phát triển, thì họ chỉ mải miết tìm kiếm những hạnh phúc chóng qua, nơi của cải, nhà cửa, địa vị, quyền lực… Đạt được hạnh phúc này thì lại khao khát hạnh phúc khác. Khi phải đi bộ thì họ mong có chiếc xe đạp, tưởng rằng có xe đạp thì sẽ hạnh phúc lắm. Nhưng khi có xe đạp thì họ chẳng hạnh phúc, vì họ lại mong ước chiếc xe máy… rồi xe hơi… rồi nhà cao cửa rộng… rồi địa vị quyền lực… Nhưng dẫu có trở thành một ông vua hay bà hoàng, họ vẫn cảm thấy đau khổ, và chẳng hạnh phúc.

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu khuyên người ta không nên tìm thứ «lương thực mau hư nát» là những cái chỉ đem lại những hạnh phúc thoáng qua, mà hãy tìm loại «lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh». «Lương thực thường tồn» ấy chính là những gì nuôi sống đời sống tâm linh, làm cho sự sống ấy phát triển. Khi đời sống tâm linh phát triển, con người sẽ hạnh phúc mãi, và không gì trong cuộc đời có thể làm họ đau khổ hay mất hạnh phúc. Đó chính là thứ «nước» mà Đức Giêsu hứa ban cho ta: «Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14).

4. Lương thực trường sinh ấy chính là Đức Giêsu
Để có đời sống tâm linh phát triển, nghĩa là để có hạnh phúc đích thực và lâu bền, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta thứ «lương thực thường tồn» hay «bánh trường sinh», khiến chúng ta một khi đã «ăn» vào thì sẽ được thỏa mãn, hạnh phúc, không còn khao khát gì hơn nữa. «Lương thực» này khác với thứ «lương thực mau hư nát», >«ăn» vào rồi là chán ngay, và muốn «ăn» thứ khác. Lương thực thường tồn ấy chính là Đức Giêsu. Ngài nói: «Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!». Rất nhiều Kitô hữu hiểu câu này một cách rất vật chất rằng để đạt được đời sống trường sinh, ta chỉ việc rước lễ, tức rước Mình Máu Đức Giêsu vào bụng là xong. Nhưng trong đời tôi, tôi thấy biết bao Kitô hữu rước lễ hằng ngày và suốt đời mà có biến đổi hay cảm thấy hạnh phúc đích thực và lâu dài bao giờ đâu! Điều đó khiến tôi phải hiểu câu nói trên theo cách khác. Tôi đã sống và áp dụng theo cách hiểu mới ấy, và tôi cảm thấy đời tôi ngày càng thấy mình hạnh phúc hơn.

Chúng ta chỉ «ăn» được «bánh trường sinh» là chính Đức Giêsu bằng cách làm cho tâm linh ta được cấu tạo bởi những gì đã làm nên con người Đức Giêsu. Ăn thức ăn nào là nhận chất bổ, năng lực từ thức ăn ấy. Đức Giêsu là năng lực thần linh, nên «ăn» Đức Giêsu là đón nhận vào mình năng lực thần linh của Ngài. Đương nhiên «ăn» Đức Giêsu không phải là «ăn» bằng miệng, bằng thể xác, mà bằng ý thức và tâm linh của ta. Thể xác không thể nào ăn được của ăn tâm linh. Muốn «ăn» Đức Giêsu, tức «bánh trường sinh», ta phải ý thức sự hiện diện đích thực và thường hằng của Đức Giêsu trong tâm hồn ta. Ngài luôn hiện diện trong ta, nhưng ta thường không ý thức sự hiện diện ấy. «Ăn» Ngài là ý thức rằng Ngài là một nguồn năng lực vô tận về tình yêu, trí tuệ, sức mạnh, can đảm, hạnh phúc… luôn hiện diện trong ta, sẵn sàng thể hiện tràn đầy qua con người của ta, qua tư tưởng, lời nói và hành động của ta. «Ăn» Ngài thật sự sẽ làm cho đời sống của ta trở nên hạnh phúc và khởi sắc hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là kinh nghiệm của tôi, người viết bài này, xin chia sẻ với mọi người.

Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu chính là một lương thực bổ dưỡng hữu hiệu cho tâm linh con người. Nhưng «ăn» Ngài không phải là ăn theo kiểu vật chất, mà là ăn theo kiểu tâm linh. Xin Cha dạy cho con cách thức «ăn» Ngài, để con được sống trường sinh và hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và không bao giờ mất đi được. Đó là hạnh phúc đời đời. Amen.


15. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.

CHÚA GIÊSU – BÁNH TRƯỜNG SINH (cc. 22-59)
Giữa diễn từ mặc khải và trần thuật về phép lạ, rõ ràng có những khác biệt về lời văn và nội dung, và vài học giả muốn truy tìm nguốn gốc của bài diễn từ mặc khải trong số các bài giảng huấn Kitô giáo được thực hiện theo kiểu bài giảng huấn Do Thái. Có thể là như thế: thế nhưng sự duy nhất của toàn bài trần thuật cần phải được lưu ý. Từ đầu đến cuối Chúa Giêsu chỉ đeo đuổi một mục tiêu: làm cho dân chúng nhận biết Người; chính bởi vì Người không làm được điều này bằng phép lạ, nên sau đó Người thử thực hiện ý định bằng diễn từ: diễn từ và trần thuật đều dự vào cùng một chiến thuật.

Ghi chú về bản văn: Sự hợp lý liên kết chương này không rõ ràng. Điều đó hệ tại ở tầm vóc đồ sộ của bản văn, ở sự hợp lý đặc biệt của ngôn ngữ Sêmit và chắc chắn ở tận gốc cơ cấu của bản văn (có thể là một bài giảng huấn). Để cho bài đọc được dễ dàng, tôi đã ghi nhận điểm chuẩn của bản văn mà dựa theo đó độc giả sẽ có được nhiều lợi ích.

CHUYỂN TIẾP (cc. 22-25)
Giữa ngọn núi nơi mà việc mặc khải bằng dấu lạ của Chúa Giêsu đã thất bại và hội đường nơi mà việc mặc khải này đạt đến đích điểm, thì việc vượt qua Biển Hồ trở thành phần chuyển tiếp cũng như việc dân chúng tiếp tục công cuộc tìm kiếm Chúa Giêsu. Từ khi dấu lạ xảy ra, một ngày đã trôi qua, và dân chúng, cũng như các môn đệ, gặp lại Chúa Giêsu để nghe bài diễn từ trong hội đường ở Caphanaum. Người kể chuyện không xác định làm thế nào để năm ngàn người đã có thể vượt qua Biển Hồ: lại chi tiết “có vẻ thật” này không làm ông quan tâm. Còn sự quy chiếu vào việc “Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn” (c. 23) củng cố cách hiểu về Thánh Thể của đoạn này. Đối với dân chúng, Chúa Giêsu là “Rabbi”, điều này hình như là đạo lý Do Thái, giống như đạo lý đã dẫn dắt ông Nicôđêmô, kẻ gọi Chúa Giêsu là “Rabbi”, Người đã thực hiện các dấu lạ (3,2).

1. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 26-31).
Mặc khải: thấy các dấu lạ (c. 26)
Lương thực trường tồn (c. 27)
Được Con Người ban cho (c. 27)
Thiên Chúa đã ghi dấu xác nhận (c. 27)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Ăn bánh no nê
Lương thực mau hư nát
Công việc nào?
Tổ tiên chúng tôi

Lời quở trách ở câu 26 (“không phải vì các dấu lạ”) xem ra trái nghịch với câu 2 (bởi họ đã từng chứng kiến những dấu lạ). Ta có thể hòa hợp cả hai nhận định trên bằng cách đối chiếu việc tìm kiếm điều kỳ lạ (những dấu lạ ở câu 2) với ý nghĩa sâu xa của dấu lạ về mầu nhiệm của Chúa Giêsu mà dân chúng không nhận ra. Trong phần này, Chúa Giêsu chỉ tỏ mình ra một cách gián tiếp, qua việc đề cập đến dung mạo Con Người vào thời cuối cùng. Đức tin hay việc làm? Ở đây Chúa Giêsu trả lời: không thể có đức tin mà không có việc làm, bởi vì đức tin là một việc quan trọng nhất trong các công việc Thiên Chúa muốn.
Chúa Giêsu và những người Do Thái cùng chia sẻ một dòng lịch sử chung: “Tổ tiên chúng tôi”, người Do Thái nói với Chúa Giêsu như thế. Tuy nhiên giữa bánh manna và bánh đích thực bởi trời, sự đối nghịch đã có sẵn rồi.

2. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 32-46)
Mặc khải: Không phải ông Môsê, mà chính Cha tôi (c. 32)
Bánh đích thực bởi trời
Bánh Thiên Chúa ban là Bánh từ trời xuống (c. 33)
Bánh đem lại sự sống cho thế gian.
Hiểu lầm: xin cho chúng tôi mãi mãi (c. 34)
Mặc khải: Chính TÔI LÀ bánh trường sinh (c. 35)
Ai đến với Tôi không hề phải đói
Ai tin vào Tôi chẳng khát bao giờ
Tất cả những người Chúa Cha ban cho Tôi (c. 37)
Ý của Cha Tôi: Tôi sẽ cho họ sống lại (c.39)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Thấy mà không tin (c. 36)
Xầm xì (c. 41)
Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)
Làm sao ông ta có thể nói?
Mặc khải:
Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết
Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).
Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:
Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:
Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.
Tôi là (c. 51)
Bánh từ trời xuống
Bánh Tôi sẽ ban tặng...
Là để cho thế gian được sống

Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.

Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.

Ẩn ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?


16. Chú giải của Noel Quesson.

BÁNH HẰNG SỐNG
Đức Giêsu đã không nhận vinh quang chính trị Người ta gán cho, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.

Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có mặt ở bờ Biển Hồ Galilê thì họ lên chuyến đi Ca-phác-na-um tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ.
Vinh quang chính trị, lương thực trần thế thuộc bến bờ khác, thuộc lãnh vực nhân loại. Muốn gặp được Chúa thực sự, phải tìm Chúa "trên bờ bên kia". Do đó một diễn từ dài về "Bánh hằng sống" sẽ bắt đầu và là nội dung của chương 6 Tin Mừng theo Thánh Gioan. Chúng ta sẽ đọc trong 4 Chúa nhật kế tiếp.

Diễn từ này rất khác với những gì ta thường nghe Chúa nói trong 3 Tin Mừng nhất lãm, như vậy thực sự là của Chúa hay của Gioan? Câu hỏi này đã được đặt ra từ thời các Giáo phụ tiên khởi trong Giáo Hội. Những nhà chú giải chân chính nhất ngày nay vẫn tôn trọng truyền thống và tóm lại trong câu trả lời như sau: "Chúng tôi luôn nghĩ rằng, bản chất của diễn từ nói về Bánh hằng sống chắc chắn là của Chúa, nhưng tư tưởng của Thầy được truyền lại cho chúng ta qua sự giải thích của Thánh Sử: Chính Thánh Gioan đã cho rằng phải thêm những điều đó vào. Đó cũng là điều Giáo Hội thường làm (A. Feuíllet). Những gì Đức Giêsu thực sự đã nói, được thuật lại cho chúng ta bằng những ngôn từ, những kiểm nói soạn lại của Thánh sử. Được Chúa Thánh Thần linh hứng để viết Tin Mừng, Thánh Gioan chuyển tải cách trung thực những giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng không theo cách thuỷ như băng ghi âm. Nhờ suy ngẫm lâu dài người môn đệ trung thành, đã thấm nhuần giáo huấn của Thầy và chuyển đạt lại bằng những ngôn từ của chính mình. Ông vừa là chứng nhân, ta là người được linh hứng.

Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng các ông đã được ăn bánh no nê".
Đức Giêsu nói chuyện với những nông dân miền Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ và no đủ là thế nào, khi họ miệt mài làm việc để thùa thu hoạch có kết quả tốt. Cũng như với người đàn bà xứ Samaria bên bờ giếng, Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói khát bánh nước... Sự chẩn đoán của Đức Giêsu đối với những người nông dân này vừa đúng lại vừa khắt khe: Những gì họ mong đợi không phải là những "dấu chỉ của nước trời" mà là những "lợi lộc vật chất" họ có thể thu nhận được. Sự chẩn đoán này vẫn luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Những nông dân này có lẽ ít "duy vật" hơn chúng ta ngày nay. Nếu chúng ta đón nhận sự chẩn đoán này của Đức Giêsu để duyệt xét lại chính mình chúng ta sẽ khám phá ra rằng, phải chăng chúng ta cũng đói tiền bạc, đói quyền lực, sự kính trọng, an toàn, tiện nghi, và tiêu khiển? Khi Đức Giêsu "giải gỡ" những vấn đề cho chúng ta, chúng ta sẵn sàng bước theo Người. Nhưng nếu Người thực hiện những "dấu chỉ gây rtgỡ ngàng" của nước Thiên Chúa không phù hợp với chúng ta, thì chắc chắn chúng ta cũng dễ dàng bỏ Người?

Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận".
Chúa Giêsu dùng lương thực để so sánh, giúp chúng ta hiểu những gì Người mang đến cho nhân loại. Có hai thứ sự sống và hai loại của ăn: của ăn thân xác, cho ta sự sống dễ ‘hư nát’ và của ăn từ trời, cho ta ‘sự sống đời đời’. Được Thiên Chúa tạo dựng và được dựng cho Thiên Chúa, nên con người đói khát Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không gì có thể làm con người hoàn toàn thỏa mãn. Tất cả những lương thực trần gian không làm con người no thỏa. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường "lương thực hằng ngày" nhưng hãy ao ước "Bánh ban sự sống vĩnh cửu”. Đức Giêsu không xúi chúng ta biếng nhác trong công việc cần thiết cho sự sống nhân thế, nhưng Người muốn chúng ta "làm việc" cùng với sự nhiệt tình như thể để tìm kiếm sự sống không thể hư mất được. Khác với Bouddha, Đức Giêsu không bảo chúng ta phải diệt dục, nhưng ngược lại phải thăng hoa nó: Anh em chớ hài lòng với cuộc sống chẳng qua của anh em... Anh em hãy ước muốn sự sống đời đời. Hãy làm những gì cần thiết để chiếm được sự sống đó, và hãy sống sự sống vĩnh hằng ngay từ bây giờ.

Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những điều Thiên Chúa muốn?" Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”.
Ở đây bắt đầu một mạc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu. Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chúng hằng triệu lần từ 2.000 năm qua. "Anh em hãy tin". Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Người’

Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, Ông đã làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? ông sẽ làm chi đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời". Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực".
Họ vẫn còn dừng lại tại chân trời quen thuộc của họ, họ vẫn luôn ở bờ bên này, Đức Giêsu tìm cách gợi lên trong họ những khát vọng cao siêu, khởi đi từ những nhu cầu vật chất. Nhưng ngày nay, chúng ta đang đói cái gì? Mỗi ngày người ta nói với chúng ta rằng, con người sẽ có hạnh phúc khi mua một cái máy nào đó để làm việc nội trợ, ngậm một viên kẹo, dùng một thuốc khử mùi hay dầu gội dầu nào đó... Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta, những thứ "man-na" đó chỉ là một thứ thức ăn vật chất rất thô thiển, có thể nói là dành cho loài vật, nếu so với hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho ta. Các bạn có để ý đến một hiện tượng trong xã hội Tây phương mà chúng ta có thể gọi là hiện tượng "bú mút": Suốt ngày, trên các đường phố, chúng ta thấy người ta ăn, nhai, ngậm, nuốt kẹo, đặc biệt là mọc lên rất nhiều hiệu bánh kẹo đủ loại. Những nhà phân tâm học nhận thấy trong hiện tượng này một sự thoái hóa, trở về tình trạng trẻ nít: Đứa bé thường tự giải buồn bằng cách mút ngón tay cái của nó. Nhưng đó không phải là dấu hiệu biểu lộ con người chỉ thích thỏa mãn với những lạc thú phiếm diện, hời hợt sao?
Dĩ nhiên, Đức Giêsu đang đứng ở mức lãnh vực khác hẳn. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đói khát lương thực cốt yếu.

Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.
Chúng ta nên suy gẫm về sự lạ lùng mà những chữ này gợi ra cho ta không? Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn, dù không, cơn đói của chúng ta, chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói "Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng". Sau khi đã đi tìm tất cả mọi lạc thú trần gian, Thánh Angustinô đã thú nhận rằng: "Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa". Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn, đến nỗi không gì có thể lấp đầy được ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Người. Sau mỗi lạc thú dục vọng lại sinh ra dục vọng, đó là dấu hiệu của sự đòi hỏi vô biên này. “Bánh từ trời xuống" đó là man-na lương thực huyền siêu như bài đọc một Chúa nhật này đã nhắc cho chúng ta: Cái gì đây? Man-na? Người ta chờ đợi sự tái xuất hiện lương thực lạ lùng làm no thỏa, vào thời Đấng Mêsia. Nhưng khi lặp lại cách diễn tả truyền thống xa xưa, Đức Giêsu đã coi Man-na của thời Môisen chỉ là biểu tượng của "quà tặng từ trên cao", "lương thực bởi trời". Lời của Thiên Chúa. Theo sách Đệ nhi luật, mục đích sâu xa của phép lạ thời xuất hành không phải là để nuôi những người Do Thái về mặt vật chất trong sa mạc, nhưng nhằm giúp họ quen "tin tưởng" vào Chúa: "Con người không chỉ sống nhờ bánh mà còn nhờ những gì từ miệng Thiên Chúa phán ra" (Đnl 8,2-3) Đức Giêsu đã mượn câu này của sách Đệ nhị luật để nói với Satan: "Bánh vật chất" không đủ. Sự liên hệ này cho thấy, "Đấng Kitô" của Tin Mừng thứ 4 theo Thánh Gioan không khác với Đức Giêsu lịch sử đã được mô tả trong 3 Tin Mừng kia (Mt 4,4; Lc 4,4). Đức Giêsu cũng tuyên bố giáo thuyết của Người, hay hơn nữa, chính bản thân Người là lương thực: Con người không chỉ sống bằng bánh mà còn bằng lời Chúa.

Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy". Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh".
Quan niệm cho rằng lời Chúa, giới răn của Chúa là thức ăn thiêng liêng bổ dưỡng cho con người, cao quý hơn thức ăn thông thường đã có trong suốt Cựu Ước.
- A-mốt 8,11: "Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lò Thiên Chúa".
- Giêrêmia 15,16: "Khi nghe lời của Người, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”.
- Đức Giêsu theo Thánh Gioan (4,32-34).
Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy.

Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.
Trong bài Thánh thư Chúa nhật hôm nay, Thánh Phaolô nói với chúng ta về những người dân ngoại đã để cho sự hư vô dẫn đắt họ (Ep 4,17-24). Nếu những hiệu bánh ngọt cũng đủ làm thỏa mãn chúng ta, thì thật là đáng tiếc! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ bánh của Chúa, Này đây, tay con đang giơ lên cao...


17. Chú giải của Fiches Dominicales.

ĐỨC GIÊSU, BÁNH TRƯỜNG SINH

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1) Từ lương thực ‘mau hư nát’ đến lương thực ‘trường tồn’
Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu "đã lánh mặt đi lên núi một mình”. "Chiều đến", các môn đệ Người xuống thuyền đi sang "bên kia Biển Hồ”; còn Đức Giêsu lát sau đó "đi trên mặt biển" mà đến với các ông. Hôm sau đám đông cũng xuống thuyền vượt qua: Biển Hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Mọi người sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn nhiều: vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là bánh trường sinh.

Trước tiên Chúa cảnh giác đám thính giả của Người về mong muốn lệch lạc của họ. Họ có sự hiểu lầm về lương thực (xem sự hiểu lầm của phụ nữ Samari về nước uống): "Các ông đi tìm tôi, Chúa nói với họ, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. X. Léon Dufour nhận xét: Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vi của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con người sẽ ban cho" ("Lecture de l'evangile de Jean", cuốn 11, Seuil, trang 132). Chính thứ lương thực này mà con người phải khao khát được ăn; chính vì lương thực ấy mà con người phải "làm việc" để kiếm tìm.

Ngộ nhận mới do những từ ngữ "làm", "những việc" gợi lên. Dân chúng hỏi: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" Theo họ nghĩ, đó là những việc bên ngoài mà Chúa đòi hỏi nơi những kẻ thờ phượng Người, như những nghi lễ và một số những việc khác.

Lập tức Đức Giêsu bắt họ bỏ qua "những việc" (số nhiều) để nghĩ đến "Việc Thiên Chúa" (số ít): bởi lẽ "việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.

2. Từ “bánh bởi trời” đến chính Đấng là “bánh trường sinh”.
Những người đàm đạo với Chúa xem ra sẵn lòng tin nhận Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhưng dẫu sao cũng có điều kiện: "Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông”. Dân chúng vừa mới được thấy dấu lạ là bánh hóa nhiều, thế mà họ còn đòi xem một dấu lạ khác, thì kể cũng là lạ thường. Nhưng ta đừng quên câu chuyện mới xảy ra gần đây, khi những người miền Galilê này đã coi Đức Giêsu như Vị Ngôn sứ, đó là: theo truyền thống tiên tri, một dấu lạ được chứng thực là đúng thì phải được Người thực hiện nó loan báo trước. X. Léon Dufour còn nhấn mạnh: "Thực ra người ta không đòi hỏi Chúa thực hiện ngay dấu lạ, mà chỉ cần nói cho biết Người sẽ làm dấu lạ nào" (OC. trang 134).
Giống như phụ nữ Samari nại đến tổ phụ Giacóp (4,12), những người Do Thái nại đến tổ phụ Apraham, thì đám đông người miền Galilê nại đến Môsê, người đã bầu cử với Chúa ban cho có manna: "Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc”.
Đức Giêsu đã bài bác lối giải thích của họ, dựa vào lời họ trưng dẫn trong sách Xuất Hành mà làm bằng cứ:
-      Người ban manna, "bánh bởi trời" không phải là Môsê, như ý họ muốn nói, nhưng là Đấng mà Người gọi là "Cha" của Người.
-      Điều cải chính trên về ai là kẻ ban phát manna không chỉ nói về thời dĩ vãng xa xưa của cha ông họ khi Xuất Hành, mà còn liên quan tới thời buổi này đối với những kẻ đang nghe Chúa nói. An huệ manna đó được ban cho chính họ ngay lúc này, ơn huệ đó là đích thực. Lương thực Chúa Cha ban cho hôm nay làm cho hình ảnh manna tiên báo và những lời hứa của Luật được ứng nghiệm. X. Leon Dufour viết tiếp: "Giữa quá khứ và tương lai thì đây là ‘hiện tại của Thiên Chúa’. Từ việc nhớ lại manna trong sa mạc" (hồi ức) và khao khát "được ăn mãi thứ bánh ấy" (trông mong) người ta đạt tới thực tại mang tính bản thể" (OC. trang 137).
-      Sau cùng “Bánh Thiên Chúa ban, bánh từ trời xuống" không chỉ dành riêng cho một mình dân Israel thôi. Bánh đem lại sự sống cho thế gian ấy, hết mọi dân tộc trên trái đất đều có quyền được hưởng.

] "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy", dân chúng liền nói, giống như phụ nữ Samari đã nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp: “Thưa Ngài, xin Ngài cho tôi thứ nước ấy (4, 15) .

] Với lời lẽ trang trọng Chúa nói với họ "chính tôi đây là bánh trường sinh", bánh các ông ao ước ăn đó, là chính tôi đây. "Đức Giêsu làm ứng nghiệm nơi Người hình ảnh manna mang tính cánh chung vậy" (X.Léon-dufour, Sđd, trang 136).
Bởi vậy, điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là “đến" với Người và “tin" vào Người. Vì tự coi mình là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (Kn 9,1: bài đọc 1 Chúa nhật 20), là Nguồn sống đáp ứng được sự đói, khát của con người, Đức Giêsu trân trọng mời gọi anh em Người tới dùng bữa: "Ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.

BÀI ĐỌC THÊM
1) "Từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ biểu thị"
(R. Josse trong "Célébrer" tạp chí của CNPL, số 240, trang 41).
Câu hỏi tỏ vẻ quan tâm ghi ở đầu trình thuật này: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy”, cho thấy đám đông có phần nào bị lạc hướng. Họ đã tìm kiếm Đức Giêsu, nhưng không phải để hiểu biết Người: dấu lạ đã chỉ khơi dậy nơi lòng họ ước muốn có bánh ăn, chứ không phải niềm khao khát được ánh sáng soi rọi giúp hiểu biết về con người Đức Giêsu. Họ chẳng hiểu được ám chỉ về quyền năng của Con Người. Theo kiều đối thoại, Tin Mừng Gioan lần lượt trình bày cho biết sự ngộ nhận do họ không hiểu biết.

Họ ỷ mình đã từng được biết câu chuyện manna ghi trong sách thánh. Đức Giêsu vịn vào lý lẽ của họ và hướng người nghe chú tâm đến Thiên Chúa: Môsê xưa đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, nhưng không phải là bánh bởi trời đích thực, mà chỉ là bánh nếm thôi. Trong Xuất Hành, manna nói lên ân huệ cụ thể thật cần thiết, là lương thực được cung cấp sáng chiều: người ta hầu như nghĩ tưởng đến trình thuật về sáng tạo, lực sáng tạo của Chúa hoạt động một cách vô cùng rộng rãi. Nhưng ân huệ ấy vì là dấu chỉ thôi thúc lòng tin, nên phải nhắc nhở (con người thụ hưởng) nhở đến Đấng ban phát ơn tuy mắt không thấy, nhưng Ngài vẫn hiện diện và hoạt động, vẫn lèo lái con đường giải thoát. Bánh Chúa ban, lúc này đây, là chính Đấng từ trời xuống, Đấng đem lại sự sống cho thế gian.

Cuộc đối thoại sẽ còn dẫn đến một ngộ nhận mới cũng giống như ngộ nhận của phụ nữ Samari nơi Ga 4,15: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó!”. Nay Chúa không lấy một cái gì đó mà cho người ta, Chúa cho chính mình Người. Từ quan tâm đến việc Chúa làm, người ta chuyển quan tâm đến Người là ai, nghĩa là phải từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ ấy biểu thị. Lòng tin vào Đức Kitô đòi phải có một chuyển biến sâu xa tự thâm căn con người vậy.

2) "Lương thực đích thực"
(Đức Cha L. Daloz, trong "Nous avons vu sa gloire", Desclée de Brouwer, trang 81-82).
"Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến". Lời khẳng định mạnh mẽ này phơi bày điều thầm kín từ đáy lòng họ. Họ đã biết đôi chút về Đức Giêsu. Họ đã muốn tôn Người làm vua, sau khi được thấy dấu lạ hóa bánh. Điều Chúa yêu cầu họ lúc này có tính cách bó buộc. Họ phải tin vào Người, phải từ bỏ những tính toán riêng tư để đem lòng tin cậy Người. Đó cũng chính là vấn đề quyết liệt được đặt ra cho tất cả những ai gặp gõ Đức Giêsu, cho cả chính chúng ta nữa. Ta có nhận là không nhờ Người để rà xem những ý tưởng riêng tư của ta đúng hay sai, để thực hiện những chương trình của ta, mà trái lại ta biết nhờ Người giúp đi vào chương trình Người hoạch định, đi theo Người đến nơi Người muốn đưa ta đến? Những người đàm đạo với Chúa khi ấy lẫn tránh không muốn sự lựa chọn quyết liệt này. Họ muốn được kiểm chứng, họ cần phải có được một cuộc “giám định lại”, một dấu lạ khác... Họ không muốn dấn thân: "Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tuy họ đã được thấy dấu lạ về bánh, nhưng họ chưa lấy làm đủ. Nhân danh Sách Thánh họ từ khước Người: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc. Cần phải có cái gì hơn thế mới có thể lay chuyển được họ, những con người được liệt vào bậc thầy về Kinh Thánh. Đối với người không tin Đức Giêsu, luôn luôn có cách tìm thoái thác. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn tiếp tục cuộc đối thoại. Người đi cho tới cùng mặc khải Người đã bắt đầu. Người biện bác khởi đi từ chính vấn để họ đặt ra: "Thật, tôi bảo thật các ông không phải ông mô sê đã cho các ông ăn bánh bởi trỏi đâu. Ơn manna khi ấy chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một loan báo mà giờ đây mới có ý nghĩa đích thực. Chính việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Đức Giêsu mới là bánh đích thực, từ trời xuống để cho thế gian được sống: Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian".

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Địa chỉ: Hiệp Hòa, Tân Thắng, Hàm Tân, Bình Thuận.