Ads 468x60px

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2020

NGÀY 22-12

Đọc tiếp »

KINH LẠY CHA (11)


"XIN CHA CHO CHÚNG CON HÔM NAY LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY"
2828
"Xin Cha cho chúng con": còn gì đẹp hơn lòng tin tưởng của con cái trông chờ Cha ban cho mọi sự. "Người cho mặt trời mọc lên, soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (Mt 5,45). "Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa, đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn" ( x. Tv 104,27 ). Đức Giê-su dạy chúng ta lời xin này vì đây là lời tôn vinh Chúa Cha, nhìn nhận Người là Đấng Tốt Lành, vượt xa mọi lòng tốt của con người.
2829
"Xin Cha cho chúng con" cũng là lời cầu xin trong tinh thần Giao Ước : chúng ta thuộc về Người và Người thuộc về chúng ta, lo cho chúng ta. Nhưng "chúng con" cũng nhìn nhận Người là Cha của mọi người, nên cầu xin Cha cho mọi người, lời chúng con cùng chia sẻ mọi nhu cầu và đau khổ của họ.
2830
Khi xin "lương thực", chúng ta muốn nói : Cha là "Đấng ban cho chúng con sự sống, không lẽ Cha lại không ban cho chúng con lương thực cần thiết để sống, cùng với mọi của cải" "xứng hợp" cả tinh thần lẫn vật chất. Trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su nhấn mạnh đến lòng tín thác của con cái : cộng tác với Cha là Thiên Chúa Quan Phòng. Người không khuyến khích chúng ta thụ động, nhưng muốn giải thoát ta khỏi mọi lo lắng và bận tâm. Người dạy ta sống tâm tình phó thác của con cái Thiên Chúa :Đối với những ai lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, Người hứa sẽ ban cho họ đủ mọi sự. Mọi sự đều là của Chúa: ai có được Thiên Chúa thì có mọi sự, miễn là Thiên Chúa có người ấy (T. Cyprien 21).
2831
Chung quanh ta còn có những người đói vì thiếu ăn. Điều này mở ra cho chúng ta một ý nghĩa sâu xa hơn của lời cầu xin này. Cảnh nghèo đói trên thế giới mời gọi các Ki-tô hữu đang thật lòng cầu nguyện phải có trách nhiệm thực tế đối với anh em, cả trong đời sống cá nhân cũng như trong tình liên đới với các gia đình nhân loại. Lời cầu xin này trong kinh Lạy Cha gắn liền với giáo huấn của dụ ngôn Người Nghèo Khó La-da-rô và dụ ngôn Ngày Phán Xét Chung (Mt 25,31-46).
2832
Như men trong bột, nét mới mẻ của Nước Trời phải được Thần Khí của Chúa Ki-tô khơi dậy trên khắp địa cầu (AA 5). Nét mới mẻ này phải được thể hiện qua việc thiết lập công bình trong các tương quan cá nhân cũng như xã hội, kinh tế và quốc tế. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng không thể có cơ cấu xã hội công bình nếu không có những con người muốn sống công bình.
2833
Chúng ta xin lương thực "cho chúng ta": "ít lương thực" cho"nhiều người". Mối phúc thứ nhất về tinh thần nghèo khó dạy chúng ta biết chia sẻ : hiệp thông và chia sẻ của cải vật chất cũng như tinh thần, không phải vì bó buộc nhưng vì yêu thương, "Anh em có được dư giả là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu" (2 Cr 8,15).
2834
Thánh Biển Đức dạy các đan sĩ : "Cầu nguyện và làm việc" (T. Benoit 20,48). Chúng ta phải cầu nguyện như thể tất cả đều tùy thuộc vào Thiên Chúa và phải làm việc như thể tất cả tùy thuộc vào mình. Lương thực nhận được sau khi chúng ta đã vất vả làm việc vẫn là quà tặng của Cha Trên Trời; nên chúng ta vẫn phải cầu xin Cha ban lương thực và phải tạ ơn Người vì lương thực có được. Vì thế, các gia đình Ki-tô hữu đọc kinh khi dùng bữa.
2835
Lời cầu xin này trong kinh Lạy Cha và trách nhiệm kèm theo, cũng áp dụng vào một cái đói khác mà con người phải chịu, đói Lời Chúa và Thánh Thần như Sách Thánh nói: "người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Đnl 8,3; Mt 4,4). Các Ki-tô hữu phải vận dụng mọi nỗ lực để "loan Tin Mừng cho những người nghèo khó." Con người trên trái đất còn một thứ đói khát, "không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe Lời Đức Chúa" (Am 8,11). Vì thế, người Ki-tô hữu đặc biệt hiểu lời xin thứ tư về Bánh Hằng Sống : đó là Lời Chúa ta đón nhận trong đức tin và Mình Thánh Chúa ta lãnh nhận trong bí tích Thánh Thể (Ga 6,26-58).
2836
Khi đọc "hôm nay", chúng ta cũng nói lên lòng tín thác. Chúa dạy như vậy chứ chúng ta không dám đặt ra. Khi nói đến Lời và Mình Thánh Chúa, chữ "hôm nay" không chỉ nói đến ngày hôm nay của thời gian mau qua này, mà muốn nói đến Ngày Hôm Nay của Thiên Chúa :
"Nếu bạn nhận được lương thực mỗi ngày, thì mỗi ngày đối với bạn đều là ngày hôm nay. Nếu Đức Ki-tô thuộc về bạn hôm nay, thì mỗi ngày Người sống lại cho bạn. Làm sao lại như thế được ? Thiên Chúa phán: "Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con" (Tv 2,7). Ngày Hôm Nay nghĩa là: Ngày Đức Ki-tô Phục Sinh" (T.Am-rô-xi-ô 5,26).
2837
"Hằng ngày": Tân Ước không có chỗ nào khác sử dụng từ ngữ này. Hiểu theo nghĩa thời gian, chữ "hằng ngày" lặp lại chữ "hôm nay" theo ý giáo dục : giúp chúng ta khẳng định lòng tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Gắn với từ "lương thực", đây là những gì cần để sống, hay hiểu rộng hơn là những gì cần để sống đầy đủ. Nguyên ngữ Hy lạp (épiousios : vượt trên cái cốt yếu) trực tiếp chỉ về Bánh Hằng Sống, Mình Thánh Chúa, phương dược trường sinh, nếu thiếu chúng ta không có Sự Sống. Cuối cùng, liên kết với những gì vừa nói trên đây, ý nghĩa Nước Trời rất rõ: "hằng ngày" là Ngày của Chúa, Ngày của Tiệc Nước Trời đã được cho thấy trước trong Thánh Lễ để chúng ta nếm trước Nước Trời đang đến. Vì thế nên cử hành Thánh Thể "hằng ngày".
"Thánh Thể là lương thực hằng ngày của chúng ta. Đặc tính của lương thực thần thiêng này là sức mạnh hiệp nhất : hiệp nhất chúng ta với Thân Thể Đấng Cứu Độ và làm cho chúng ta trở nên chi thể Người, để chúng ta trở thành Thân Thể của Đấng chúng ta lãnh nhận...Lương thực hằng ngày cũng được ban trong các bài đọc chúng ta nghe mỗi ngày ở nhà thờ, trong các thánh thi chúng ta nghe và hát. Tất cả đều cần thiết cho chúng ta trên đường lữ hành" (T. Âu-tinh).
"Cha Trên Trời khuyến khích chúng ta là con cái Nước Trời hãy xin Bánh Bởi Trời (x. Ga 6,51). Đức Ki-tô là tấm bánh: Thiên Chúa gieo trong lòng Đức Trinh Nữ, cho lớn lên trong xác phàm, nhào nắn trong cuộc Khổ Nạn, nướng trong mộ đá, cất giữ trong Hội Thánh, dọn ra trên các bàn thờ, và mỗi ngày cung cấp cho các tín hữu làm lương thực trường sinh"(T. Phê-rô Kim Ngôn 71).
Đọc tiếp »

Lc 1:

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần. 42 Bà Ê-li-sa-bét kêu lớn tiếng và nói rằng : “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? 44 Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

Mary set out in those days and traveled to the hill country in haste to a town of Judah, where she entered the house of Zechariah and greeted Elizabeth.
When Elizabeth heard Mary's greeting, the infant leaped in her womb, and Elizabeth, filled with the holy Spirit, cried out in a loud voice and said, "Most blessed are you among women, and blessed is the fruit of your womb. And how does this happen to me, that the mother of my Lord should come to me? For at the moment the sound of your greeting reached my ears, the infant in my womb leaped for joy. Blessed are you who believed that what was spoken to you by the Lord would be fulfilled."
Đọc tiếp »

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2020

“Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23) (Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, 18/12/2020)


“Ngôi Lời đã hóa thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Trước khi kết thúc, chúng ta cần chuyển từ số nhiều sang số ít. Ngôi Lời đã không đến thế gian một cách chung chung mơ hồ, nhưng đã đi vào mỗi tâm hồn tin tưởng một cách cá vị. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Do đó, Đức Kitô không chỉ hiện diện trên con thuyền của thế giới hay của Giáo hội; Người hiện diện trên con thuyền nhỏ của đời tôi. Thật là một suy nghĩ sâu sắc! Giá như chúng ta có thể thực sự tin tưởng vào điều đó! Thánh Elizabeth của Chúa Ba Ngôi đã khám phá ra rằng bí mật về sự thánh thiện của thánh nữ nằm ở đó. Như ngài đã từng viết cho một người bạn rằng: “Tôi dường như đã tìm thấy thiên đường của riêng mình trên trái đất này, bởi vì thiên đường là Chúa và Chúa đang ở trong tâm hồn tôi. Ngày tôi hiểu ra điều này, mọi thứ đều tràn ngập ánh sáng”.

Với những hạn chế đối với việc thờ phượng nơi công cộng và đối với việc tham dự thánh lễ trong nhà thờ, do nó gây ra, đại dịch này có thể là cơ hội để nhiều người trong chúng ta khám phá ra rằng chúng ta không chỉ gặp được Chúa bằng cách đến nhà thờ, nhưng chúng ta có thể thờ phượng Chúa ‘trong tinh thần và chân lý’ và trò chuyện với Chúa Giêsu ngay cả khi bị nhốt trong nhà, hoặc thậm chí trong phòng của chúng ta. Đời sống Kitô không thể không có Thánh Thể và cộng đoàn, nhưng khi điều này bị ngăn cản bởi những điều kiện bất khả kháng, các Kitô hữu không nên nghĩ rằng đời sống Kitô bị gián đoạn. Nếu bạn chưa bao giờ gặp Chúa Kitô trong lòng mình trước đây, bạn sẽ không bao giờ gặp Ngài - theo nghĩa mạnh của từ này - ở bất cứ nơi nào khác.
Có một tuyên bố táo bạo về lễ Giáng sinh đã vang lên nhiều lần trên miệng lưỡi của các tiến sĩ Hội Thánh và các bậc thầy tâm linh vĩ đại của Giáo hội như Origen, thánh Augustinô, thánh Bernard, Angelus Silesius và nhiều vị khác. Về cơ bản, là thế này: “Chúa Kitô đã được sinh ra bởi Đức Maria một lần ở Bêlem, điều đó có ích gì đối với tôi nếu Ngài không được sinh ra bởi đức tin trong lòng tôi?”. Như thánh Ambrôsiô đã viết: “Theo nghĩa sâu xa nhất, liệu Chúa Kitô còn có thể được sinh ra ở đâu khác, ngoài trái tim và tâm hồn bạn?” Thánh Maximô Cha Giải Tội lặp lại rằng: “Ngôi Lời Thiên Chúa muốn lặp lại mầu nhiệm nhập thể của Ngài trong mọi người nam nữ”. Như bạn có thể thấy, đó là một chân lý đại kết thực sự...
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong sứ điệp Giáng Sinh năm 1962, đã nêu lên lời cầu nguyện cháy bỏng này: “Hỡi Lời Vĩnh Hằng của Cha, Con Thiên Chúa và Con của Mẹ Maria, hãy đổi mới một lần nữa hôm nay, trong thẳm sâu tâm hồn chúng con, điều kỳ diệu phi thường trong sự giáng sinh của Chúa”. Chúng ta hãy biến lời cầu nguyện này thành lời cầu nguyện của riêng mình, nhưng, trong hoàn cảnh bi đát mà chúng ta đang trải qua, chúng ta hãy thêm vào đó lời cầu xin cháy bỏng của phụng vụ Giáng sinh: “Hỡi Vua của các dân tộc, Đấng cai trị mà họ hằng mong ước, là đá tảng hiệp nhất mọi người: Hãy đến và cứu tất cả chúng con, là những người mà Ngài đã hình thành từ đất sét”. Xin hãy đến và nâng dậy nhân loại, đang kiệt sức vì thử thách kéo dài của đại dịch hiện nay!” (Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, 18/12/2020)
Đọc tiếp »

TÌNH YÊU LÀ KHIÊM NHƯỜNG


“Thiên Chúa là tình yêu và do đó là sự khiêm nhường! Tình yêu tạo ra sự phụ thuộc vào người bạn yêu, và kiểu phụ thuộc đó không làm bẽ mặt mà còn làm thăng hoa. Hai tuyên bố ‘Thiên Chúa là tình yêu’ và ‘Thiên Chúa là sự khiêm nhường’ giống như hai mặt của cùng một đồng tiền. Tuy nhiên, từ ngữ khiêm nhường có nghĩa là gì, khi nó được áp dụng cho Thiên Chúa và đâu là ý nghĩa trong những lời này của Chúa Giêsu: ‘Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng’ (Mt 11, 29)? Về bản chất, điều cốt yếu là thế này: khiêm nhường không phải là ‘trở nên nhỏ bé’ (vì một người có thể nhỏ bé và tầm thường nhưng vẫn không có lòng khiêm nhường); cũng không phải là chuyện tự xem bản thân mình là hèn mọn (vì điều đó có thể phụ thuộc vào một hình ảnh tiêu cực về bản thân); và cũng chẳng phải là chuyện tuyên bố mình là hèn mọn (vì bạn có thể nói như thế nhưng không thực sự tin vào điều đó); đúng hơn, khiêm nhường là việc khiến bản thân mình trở nên nhỏ bé và ta làm điều đó vì tình yêu, để người khác có thể nổi lên. Theo nghĩa đó, chỉ có Chúa mới thực sự khiêm nhường. Thật thế,

Ai sánh bằng Thiên Chúa Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời,
cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất?
Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi,
ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro. (Tv 113, 5-7).
Dù không được học hành nhiều, Phanxicô Assisi đã hiểu được điều đó. Trong lời Ca ngợi Thiên Chúa Tối Cao, tại một số chỗ, ngài nói với chính Thiên Chúa rằng: ‘Chúa là sự khiêm nhường!’ Và trong Thư gửi toàn thể Dòng, Ngài kêu lên: ‘Hỡi anh em, hãy nhìn vào sự khiêm nhường của Thiên Chúa’. Như ngài viết trong Lời khuyên đầu tiên của mình: ‘Người tự hạ mình xuống, chính khi ngự xuống trong lòng Đức Trinh Nữ’.
Lễ Giáng sinh là lễ của sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Để tôn vinh điều đó trong tinh thần và sự thật, chúng ta cần trở nên giống như những đứa trẻ, như bạn cần cúi đầu để đi qua cánh cửa hẹp nhỏ để bước vào Vương Cung Thánh Đường Chúa Giáng Sinh ở Bêlem.” (Đức Hồng Y Raniero Cantalamess, 18/12/2020)
Đọc tiếp »

NGÀY 21-12

Đọc tiếp »

THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA


“... Lễ Giáng Sinh cho phép chúng ta mở rộng chân trời: từ biển Galilê đến khắp cùng thế giới, từ các tông đồ đến chúng ta: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Trong tiếng Hy Lạp, động từ eskenosen (nghĩa đen là ‘dựng lều hạ trại’), ở thì aorist, chuyển tải ý tưởng về một hành động đã hoàn thành và không thể đảo ngược được. Con Người đã xuống thế gian và Thiên Chúa không thể hư mất. Một Kitô hữu có thể mạnh dạn hơn tác giả của Thánh Vịnh để tuyên bố rằng:

Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động, núi đồi có sập xuống biển sâu,
dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi thủy triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì. (Tv 46, 2-4)
“Chúa ở cùng chúng ta”, cụ thể là đứng về phía con người, như một người bạn và một đồng minh chống lại thế lực của cái ác. Chúng ta cần khám phá lại ý nghĩa nguyên thủy và đơn giản trong mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời, vượt lên tất cả những giải thích thần học và những tín lý được xây dựng trên đó. Thiên Chúa đã cư ngụ giữa chúng ta! Ngài muốn biến sự kiện này thành tên riêng của mình: Emmanuel, Chúa ở cùng chúng ta. Điều mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: ‘Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen’. (Is 7, 14) đã trở thành sự thật.
Như tôi đã từng nói, chúng ta cần quay trở lại cuộc tranh cãi đầu tiên trong tất cả các cuộc tranh cãi về Kitô học hồi thế kỷ thứ năm, trước các Công đồng Êphêsô và Chancêđon, để tái khám phá nghịch lý và tai tiếng chứa đựng trong tuyên bố: ‘Ngôi Lời đã cư ngụ giữa chúng ta’. Thật đáng đọc phản ứng của một người ngoại giáo có học thức sống vào thế kỷ thứ hai, sau khi biết về tuyên bố này của các tín hữu Kitô. Nhà triết học Celsius đã kinh hoàng và kêu lên rằng: ‘Con của Chúa, mà lại là một người chỉ sống cách đây vài năm thôi à?’ Ngôi Lời hằng sống là một người chỉ mới ở đây “hôm qua hay hôm kia” thôi sao? là một người đàn ông “được sinh ra từ một người quay tơ nghèo, trong một ngôi làng của xứ Giuđêa” sao? Phản ứng ấy khá dễ hiểu: sự kết hợp hoàn hảo giữa thần tính và nhân tính trong con người của Chúa Kitô là điều mới lạ nhất có thể có, là “điều mới mẻ duy nhất dưới ánh mặt trời”, như Thánh Gioan thành Đamát định nghĩa.
Trận chiến lớn đầu tiên mà đức tin nơi Chúa Kitô phải đương đầu không phải là về thần tính của Ngài, mà là về nhân tính của Ngài, và về chân lý của mầu nhiệm nhập thể. Căn nguyên của sự từ chối đó là giáo điều của Plato, nói rằng ‘không có Thiên Chúa nào lại hòa hợp với con người’. Từ kinh nghiệm cá nhân, Thánh Augustinô khám phá ra rằng căn cội của khó khăn mà thánh nhân cảm thấy để có thể tin vào mầu nhiệm nhập thể là sự thiếu khiêm nhường. Như ngài viết trong cuốn Tự Thuật của mình ‘không khiêm nhường, tôi không thể hiểu được sự khiêm nhường của chính Thiên Chúa’.
...
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong sứ điệp Giáng Sinh năm 1962, đã nêu lên lời cầu nguyện cháy bỏng này: “Hỡi Lời Vĩnh Hằng của Cha, Con Thiên Chúa và Con của Mẹ Maria, hãy đổi mới một lần nữa hôm nay, trong thẳm sâu tâm hồn chúng con, điều kỳ diệu phi thường trong sự giáng sinh của Chúa”. (Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, 18/12/2020)
Đọc tiếp »

Tv 23:

Ai được lên núi Chúa ?

Ai được ở trong đền thánh của Người ?
Đó là kẻ tay sạch lòng thanh,
chẳng mê theo ngẫu tượng.
Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành,
được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.
Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người,
tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.
Who can ascend the mountain of the LORD?
or who may stand in his holy place?
One whose hands are sinless, whose heart is clean,
who desires not what is vain.
He shall receive a blessing from the LORD,
a reward from God his savior.
Such is the race that seeks for him,
that seeks the face of the God of Jacob.
Đọc tiếp »

Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2020

CẦU NGUYỆN CHO NHAU (ĐTC Phanxicô, 16/12/2030)


“... Trái tim con người hướng về việc cầu nguyện. Điều này hoàn toàn nhân bản. Ai không yêu thương anh chị em mình thì không cầu nguyện nghiêm túc. Ai đó có thể nói: người ta không thể cầu nguyện khi chìm đắm trong hận thù; người ta không thể cầu nguyện khi chìm đắm trong sự dửng dưng. Lời cầu nguyện chỉ được dâng lên trong tinh thần yêu thương. Những người không yêu chỉ giả vờ cầu nguyện, họ tin họ đang cầu nguyện, nhưng họ không cầu nguyện vì họ thiếu tinh thần thích hợp, đó là tình yêu. Trong Giáo hội, những người quen với nỗi buồn và niềm vui của người khác đào sâu hơn những người điều tra “hệ thống chủ yếu” của thế giới. Vì thế, kinh nghiệm của con người hiện diện trong mọi lời cầu nguyện, vì bất kể người ta có thể đã phạm phải những lỗi lầm nào, họ không bao giờ bị bác bỏ hoặc bị gạt sang một bên.

Khi các tín hữu, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, cầu nguyện cho những người tội lỗi, họ không được lựa chọn, không được phán xét hay lên án ai: họ cầu nguyện cho tất cả mọi người. Và họ cầu nguyện cho chính họ. Lúc đó, họ biết rằng họ không khác những người được họ cầu nguyện cho. Họ nhận ra mình là những kẻ tội lỗi giữa những kẻ tội lỗi và họ cầu nguyện cho mọi người. Bài học của dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế luôn sống động và có liên quan (xem Lc 18: 9-14): chúng ta không tốt hơn ai hết, tất cả chúng ta đều là anh chị em, những người mang thân phận mong manh, đau khổ và tội lỗi chung.
...
Thế giới tiếp tục tiến bước nhờ vào chuỗi những người cầu nguyện này, những người chuyển cầu, và là những người phần lớn không được biết đến, nhưng Thiên Chúa biết đến! Trong tất cả các chi thể của mình, Giáo Hội có sứ mạng thực hành lối cầu nguyện chuyển cầu: chuyển cầu cho người khác. Điều này đặc biệt đúng đối với những người thực thi các vai trò trách nhiệm: cha mẹ, giáo viên, thừa tác viên thụ phong, cấp trên của các cộng đồng… Giống như Ápraham và Môsê, đôi khi họ phải “bênh vực” dân đã được giao phó cho họ trước mặt Thiên Chúa. Trên thực tế, chúng ta đang nói về việc bảo vệ họ bằng đôi mắt và trái tim của Thiên Chúa, bằng lòng từ bi và sự dịu dàng bách chiến bách thắng của Người. Cầu nguyện cho người khác một cách âu yếm.
Thưa anh chị em, chúng ta đều là những chiếc lá trên cùng một thân cây: mỗi chiếc rơi xuống nhắc nhở chúng ta về lòng đạo đức cao cả cần được nuôi dưỡng trong lời cầu nguyện, cho nhau. Vì vậy, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau. Nó sẽ mang lại điều tốt cho chúng ta và cho mọi người. Cảm ơn anh chị em.” (ĐTC Phanxicô, 16/12/2030)
Đọc tiếp »

NGÀY 19-12

Đọc tiếp »

KINH LẠY CHA (7)


Bảy lời nguyện xin

2803
Sau khi đã đặt mình trước tôn nhan Thiên Chúa là Cha để thờ lạy, yêu mến và chúc tụng Người, Thần Khí Nghĩa Tử khơi lên trong lòng chúng ta bảy lời nguyện xin, bảy lời chúc tụng. Ba lời đầu tiên, trực tiếp hướng về Thiên Chúa hơn, hướng lòng ta đến Vinh Quang Thiên Chúa. Bốn lời sau, như những con đường đến với Thiên Chúa, xin Người nhìn đến thân phận khốn cùng của chúng ta mà ban Ân Phúc. "Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm,... Chúa quên con sao đành?" (Tv 42,8-10).
2804
Ba lời nguyện đầu tiên hướng chúng ta về Thiên Chúa và vì Thiên Chúa : Danh Cha, Nước Cha, Ý Cha. Đặc tính của tình yêu là trước hết nghĩ đến người mình yêu. Ba lời nguyện này, không nói gì đến chúng ta; nhưng chúng ta bị lôi cuốn theo lòng "khát khao mong mỏi" "đến khắc khoải" của Chúa Con vì lo cho Vinh Quang của Cha Người : "nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện..." Ba lời nguyện này được Thiên Chúa nhận lời trong hy tế cứu độ của Đức Ki-tô; nhưng từ nay, những lời nguyện này chứa chan hy vọng, còn đang hướng về ngày thực hiện chung cuộc, bao lâu Thiên Chúa chưa hoàn tất chương trình cứu độ của Người (1Cr15,28).
2805
Bốn lời cầu xin sau đó diễn ra giống như trong một số lời nguyện "xin ban Thánh Thần" trong thánh lễ: Chúng ta dâng lên những hy vọng của mình và mong được Thiên Chúa là Cha Đầy Lòng Thương Xót nhìn đến. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa những lời này, xin cho chính mình, ở đời này trong hiện tại "xin cho chúng con... xin tha nợ cho chúng con... xin chớ để chúng con... xin cứu chúng con..." Lời xin thứ tư và thứ năm liên quan đến cuộc sống thực tế của ta : xin lương thực và xin tha tội. Với hai lời cầu xin cuối, chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa giúp sức trong cuộc chiến để Sự Sống chiến thắng, đây cũng là cuộc chiến trong cầu nguyện.
2806
Nhờ ba lời nguyện đầu tiên, chúng ta được củng cố đức tin, tràn đầy đức cậy và nung nóng đức mến. Chẳng những là thụ tạo mà còn là tội nhân, chúng ta phải khẩn cầu cho chúng ta, cho toàn thể nhân loại trong thế giới và lịch sử. Chúng ta dâng tất cả cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Vì chính nhờ Danh Đức Ki-tô và triều đại của Thánh Thần Người, Chúa Cha hoàn thành kế hoạch cứu độ của Người, cho chúng ta và cho toàn thế giới
Đọc tiếp »

Mt 1:

18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” 22 Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ : 23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.

This is how the birth of Jesus Christ came about. When his mother Mary was betrothed to Joseph, but before they lived together, she was found with child through the Holy Spirit. Joseph her husband, since he was a righteous man, yet unwilling to expose her to shame, decided to divorce her quietly. Such was his intention when, behold, the angel of the Lord appeared to him in a dream and said, "Joseph, son of David, do not be afraid to take Mary your wife into your home. For it is through the holy Spirit that this child has been conceived in her. She will bear a son and you are to name him Jesus, because he will save his people from their sins." All this took place to fulfill what the Lord had said through the prophet: Behold, the virgin shall be with child and bear a son, and they shall name him Emmanuel, which means "God is with us." When Joseph awoke, he did as the angel of the Lord had commanded him and took his wife into his home.
Đọc tiếp »

Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2020

NGÀY 18-12

Đọc tiếp »

NGƯỜI CẦU NGUYỆN LÀ “ăng-ten” GIÚP MỌI NGƯỜI KẾT NỐI VỚI CHÚA...


“Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Những người cầu nguyện không bao giờ quay lưng lại với thế giới. Nếu không tiếp nhận các niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và lo lắng của con người, lời cầu nguyện trở thành một hoạt động “trang trí”, một cách hành xử hời hợt, đóng kịch, đơn độc. Tất cả chúng ta đều cần có nội tâm tính: rút lui vào một không gian và một thời gian dành riêng cho mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Nhưng điều này không có nghĩa chúng ta trốn tránh thực tại. Trong lời cầu nguyện, Thiên Chúa “tiếp nhận chúng ta, ban phước cho chúng ta, rồi bẻ bánh và ban cho chúng ta”, để thỏa mãn cơn đói của mọi người. Mọi Kitô hữu đều được kêu gọi trở nên bánh ăn, được bẻ ra và chia sẻ trong bàn tay Thiên Chúa. Đó là, đó là lời cầu nguyện cụ thể, đó không phải là một việc trốn tránh.
Vì vậy, những người nam nữ cầu nguyện tìm kiếm sự thanh vắng và im lặng, không phải để khỏi bị quấy rầy, nhưng để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa cách tốt hơn. Đôi khi họ rút lui hoàn toàn khỏi thế giới, trong cảnh bí mật của căn phòng riêng của họ, như Chúa Giêsu vốn khuyến cáo (x. Mt 6, 6). Nhưng dù ở đâu, họ vẫn luôn giữ cho cánh cửa tâm hồn họ rộng mở: cánh cửa rộng mở cho những ai cầu nguyện mà không biết phải cầu nguyện ra sao; cho những người không cầu nguyện gì cả nhưng mang trong mình một tiếng kêu ngột ngạt, một lời khẩn cầu tiềm ẩn; cho những người lầm đường lạc lối… Bất cứ ai gõ cửa người cầu nguyện đều thấy một tấm lòng nhân ái không loại trừ một ai. Lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim và tiếng nói của chúng ta, sẽ mang trái tim và tiếng nói lại cho rất nhiều người không biết cách cầu nguyện, hoặc không muốn cầu nguyện, hay không thể cầu nguyện: chúng ta như những người chuyển cầu, là trái tim và tiếng nói của những người này, gúp họ vươn lên tới Chúa Giêsu, vươn lên tới Chúa Cha. Trong cảnh yên tĩnh của những người cầu nguyện, cho dù sự yên tĩnh này kéo dài một thời gian lâu hay chỉ nửa giờ, để cầu nguyện, những người cầu nguyện tách mình ra khỏi mọi sự và khỏi mọi người để tìm thấy mọi sự và mọi người trong Thiên Chúa. Những người này cầu nguyện cho cả thế giới, gánh trên vai những nỗi buồn và tội lỗi của họ. Họ cầu nguyện cho mỗi người và mọi người: họ giống như những chiếc “ăng-ten” của Thiên Chúa trong thế giới này. Người cầu nguyện nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Kitô nơi mọi người nghèo đến gõ cửa, nơi mọi người đã đánh mất ý nghĩa của sự vật. Trong Sách Giáo Lý chúng ta đọc: “việc chuyển cầu, tức cầu xin cho người khác (…) là đặc điểm của một tấm lòng cùng rung nhịp với lòng thương xót của Thiên Chúa”. Điều này thật đẹp đẽ.
Khi cầu nguyện, chúng ta cùng rung nhịp với lòng thương xót của Thiên Chúa; có lòng thương xót đối với tội lỗi của chúng ta, thương xót với chính chúng ta, nhưng cũng thương xót với tất cả những người đã yêu cầu được cầu nguyện, những người mà chúng ta muốn cầu nguyện cho cùng nhịp với trái tim của Thiên Chúa. Đây là lời cầu nguyện đích thực: cùng nhịp với lòng thương xót của Thiên Chúa, với trái tim thương xót của Người. “Trong thời đại của Giáo hội, sự chuyển cầu của Kitô hữu tham dự vào sự chuyển cầu của Chúa Kitô, như một biểu thức của sự hiệp thông các thánh” (n. 2635). Tham dự vào sự chuyển cầu của Chúa Kitô nghĩa là gì? Khi tôi chuyển cầu cho ai đó hoặc cầu nguyện cho ai đó: thì Chúa Kitô ở trước mặt Chúa Cha, Người là Đấng chuyển cầu, Người cầu nguyện cho chúng ta, Người cầu nguyện, cho Chúa Cha thấy những vết thương trên tay của Người, thì Chúa Giêsu hiện diện trước mặt Chúa Cha với nhiệm thể của Người. Và Chúa Giêsu là người chuyển cầu của chúng ta và cầu nguyện là giống như Chúa Giêsu một chút: chuyển cầu trong Chúa Giêsu cùng Chúa Cha, cho những người khác. Điều này rất đẹp đẽ...” (ĐTC Phanxicô, 16/12/2020)
Đọc tiếp »

Thứ Năm, 17 tháng 12, 2020

NGÀY 17-12


 

Đọc tiếp »

KINH LẠY CHA (6)


2794

"Ở TRÊN TRỜI"
Khi gọi Thiên Chúa là "Đấng ngự trên trời", Thánh Kinh không muốn nói Người đang ở một nơi nào đó trong không gian, nhưng nói đến một cách hiện hữu; không muốn nói Người ở xa ta, nhưng muốn nói Người rất uy nghi cao cả. Thiên Chúa không ở một nơi nào đó, nhưng Người là Đấng Thánh vượt trên mọi sự chúng ta có thể quan niệm. Vì Người là Đấng Chí Thánh, nên rất gần gũi với những tâm hồn khiêm cung và thống hối :
Thật có lý khi ta hiểu "Lạy Cha chúng con ở trên trời" là Người hiện diện nơi tâm hồn những người công chính, như trong đền thờ của Người. Câu kinh đó cũng có nghĩa là người cầu nguyện ước mong Đấng mình kêu cầu ngự trong lòng mình (T. Âu-tinh, Bài giảng Chúa nhật 2,5,17 ) .
"Ở đây, chúng ta có thể hiểu "trời" là những ai mang hình ảnh thiên quốc, Thiên Chúa vui thích cư ngụ nơi tâm hồn họ" (T. Xy-ri-lô thành Giê-ru-sa-lem 5,11).
2795
Biểu tượng "trời" nhắc chúng ta nhớ đến mầu nhiệm Giao Ước chúng ta đang sống, khi đọc kinh "Lạy Cha". Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là Nhà Cha, nên là "quê hương" của ta. Vì tội lỗi, chúng ta bị lưu đày xa miền đất Giao Ước; nhờ hoán cải tâm hồn, chúng ta được về "trời", về cùng Cha. trong Đức Ki-tô, trời đất được giao hòa, vì chỉ Chúa Con là Đấng "từ trời xuống thế" và đưa chúng ta lên trời với Người, nhờ cuộc Khổ Nạn, Phục Sinh và Thăng Thiên (x. Ga 12,32; 14,2-3; 16,28;20,17; Eph 4,9-10; Dt 1,3; 2,13).
2796
Khi kêu cầu "Lạy Cha chúng con ở trên trời", Hội Thánh tuyên xưng : chúng ta là Dân Thiên Chúa, "đã được cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời" (Eph 2,6), "hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa"(Cl 3,3), đồng thời, "chúng ta rên siết là vì những ước mong được thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng ta phủ lên chiếc lều ở dưới đất này"(2 Cr 5,2):
"Các tín hữu có xác phàm, nhưng không sống theo xác phàm. Họ sống trên dương thế, nhưng là công dân Nước Trời" (Epitre á Diognète 5, 8-9).
2797
Chúng ta phải đọc kinh Lạy Cha với lòng tin tưởng đơn sơ và trung thành, khiêm tốn và vui mừng phó thác nơi Thiên Chúa.
2798
Chúng ta có thể kêu cầu Thiên Chúa là "Cha", vì Con Thiên Chúa làm người đã dạy chúng ta như thế. Trong Đức Ki-tô, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Người và được nhận là con Thiên Chúa.
2799
Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta được hiệp thông với Chúa Cha và với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, đồng thời chúng ta được biết thiên chức của mình (GS 22,1).
2800
Khi đọc kinh "Lạy Cha", chúng ta phải ước muốn được nên giống Thiên Chúa, và phải có lòng khiêm tốn và tin tưởng.2801
Khi đọc Lạy Cha "của chúng con", chúng ta nhắc đến Giao Ước Mới trong Đức Giê-su Ki-tô, sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và tình yêu Thiên Chúa bao trùm cả thế giới nhờ Hội Thánh.
2802
Khi gọi Thiên Chúa là Đấng "ở trên trời", chúng ta không nghĩ rằng Người đang ở một nơi nào đó, nhưng muốn nói Người rất uy nghi cao cả và đang hiện diện nơi tâm hồn những người công chính. "Trời" là Nhà Cha, là quê hương đích thực, nơi chúng ta hy vọng sẽ tới và hiện nay chúng ta đã là thành viên.
Đọc tiếp »

Thứ Tư, 16 tháng 12, 2020

KINH LẠY CHA (5)


2786

"LẠY CHA "CHÚNG CON"
Khi gọi Thiên Chúa là Cha "của chúng ta", chúng ta không nghĩ rằng mình chiếm hữu được Thiên Chúa, nhưng có một tương quan mới mẻ với Người.
2787
Khi gọi Thiên Chúa là Cha "của chúng ta", trước hết chúng ta nhìn nhận rằng mọi lời Thiên Chúa yêu thương hứa qua các ngôn sứ đã được thực hiện nơi Đức Ki-tô trong Giao ước Mới và Vĩnh cữu : Chúng ta đã trở thành Dân "của Người" và từ nay Người là Thiên Chúa "của chúng ta". Thiên Chúa và chúng ta thuộc về nhau : tương quan mới này là quà tặng của Thiên Chúa ( x. Hs 2,21-22; 6,1-6 ) . Chúng ta phải đáp lại "ân sủng và sự thật" mà Người ban tặng "nhờ Đức Giê-su Ki-tô" (Ga 1,17) bằng lòng yêu mến và trung thành.
2788
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện của Dân Chúa trong "thời sau hết", nên khi đọc "của chúng con" chúng ta hy vọng vững vàng vào lời hứa tối hậu của Thiên Chúa. Trong thành thánh Giê-ru-sa-lem mới, Người sẽ phán với kẻ chiến thắng : "Ta sẽ là Thiên Chúa của người ấy và người ấy sẽ là con của Ta"( Kh 21,7).
2789
Khi đọc "Lạy Cha chúng con", chúng ta thân thưa với Cha của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Chúng ta không phân chia thần tính, vì Chúa Cha là "nguồn mạch và căn nguyên" của thần tính. Nhưng ở đây, chúng ta muốn tuyên xưng : từ muôn thuở, Chúa Con được Chúa Cha sinh ra và Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha. Chúng ta cũng không hề lẫn lộn các Ngôi Vị, vì chúng ta tuyên xưng rằng : chúng ta được hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con là Đức Giê-su Ki-tô, trong Thánh Thần duy nhất. Ba Ngôi Chí Thánh đồng bản tính và không thể phân chia. Khi cầu nguyện cùng Chúa Cha, chúng ta thờ lạy và tôn vinh Người cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
2790
Khi đọc "Lạy Cha chúng con", chúng ta tuyên xưng Người là Cha của nhiều người. Chỉ có một Thiên Chúa và Người được nhìn nhận là Cha của những kẻ đã được tái sinh bởi nước và Thánh Thần (nhờ tin vào Con Một Thiên Chúa). "Hội Thánh" chính là hiệp thông mới giữa Thiên Chúa và loài người : Hội Thánh hiệp nhất với Con Một Thiên Chúa là "trưởng tử giữa một đàn em đông đúc" (Rm 8,29), nên Hội Thánh được hiệp thông với Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần. Khi thưa "Lạy Cha chúng con", mỗi Ki-tô hữu cầu nguyện trong sự hiệp thông này : "các tín hữu tuy đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý" ( Cv 4,32 ).
2791
Do đó, dù các Ki-tô hữu còn chia rẽ, kinh Lạy Cha vẫn là tài sản chung và là một lời mời gọi khẩn thiết cho mọi Ki-tô hữu. Được hiệp thông với Chúa Ki-tô nhờ đức tin và nhờ bí tích Thánh Tẩy, họ phải cùng cầu nguyện với Chúa Giê-su để các môn đệ được hiệp nhất ( x. UR 8;22).
2792
Sau cùng, nếu thật lòng cầu nguyện "Lạy Cha chúng con", chúng ta thoát được chủ nghĩa cá nhân, vì khi đón nhận Thiên Chúa yêu thương, chúng ta được giải thoát. Từ "chúng con" ở đầu kinh Lạy Cha, cũng như từ "chúng con" trong bốn lời xin cuối kinh, không loại trừ một ai. Để thật lòng đọc kinh Lạy Cha ( x. Mt 5,23-24;6,14-16 ) , chúng ta phải vượt qua mọi chia rẽ và chống đối.
2793
Các tín hữu không thể cầu nguyện "Lạy Cha chúng con", mà không dâng lên tất cả những ai Chúa đã ban tặng Con yêu dấu. Tình yêu của Thiên Chúa không có biên giới, nên lời cầu nguyện của chúng ta cũng phải như vậy ( x. NA 5) . Khi đọc "Lạy Cha chúng con", lòng chúng ta được mở rộng theo tình yêu của Chúa Cha được biểu lộ trong Đức Ki-tô : cầu nguyện với và cho tất cả những ai chưa nhận biết Chúa, để họ "được quy tụ về một mối" (Ga11,52). Sự chăm sóc của Thiên Chúa dành cho mọi người và muôn loài đã thôi thúc các thánh nhân, chúng ta phải mở rộng lời cầu nguyện theo tình thương này khi chúng ta dám đọc "Lạy Cha chúng con".
Đọc tiếp »

Thứ thư, Tuần III MV


 

Đọc tiếp »

Thứ Ba, 15 tháng 12, 2020

LOẠI TRỪ SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI, SỰ SỐNG ĐỜI NÀY ĐAU KHỔ GIA TĂNG...


“Đối với các Kitô hữu, đức tin vào sự sống đời đời không dựa trên những lập luận triết học về sự bất tử của linh hồn. Nó dựa trên một sự kiện chính xác, đó là sự phục sinh của Chúa Kitô, và lời hứa của Ngài: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 2-3). Đối với chúng ta, các Kitô hữu, sự sống đời đời không phải là một phạm trù trừu tượng, mà là một con người. Nó có nghĩa là sống với Chúa Giêsu, “làm nên một thân thể” với Người, chia sẻ sự sống của Đấng Phục sinh trong sự sung mãn và niềm vui sự sống của Chúa Ba Ngôi: “Cupio dissolvi et esse cum Christo”, như thánh Phaolô đã nói với dân thành Philípphê thân yêu: “Tôi khao khát được rời bỏ cuộc sống này và ở với Đức Kitô” (Pl1,23).

Chúng ta có thể tự hỏi điều gì đã xảy ra với chân lý Kitô về sự sống đời đời. Trong những thời đại như thời của chúng ta, bị chi phối bởi vật lý và vũ trụ học, những người theo thuyết vô thần đưa ra trên hết là thái độ phủ nhận sự tồn tại của một đấng sáng tạo ra thế giới; vào thế kỷ 19, họ thích bác bỏ đời sau. Hegel đã tuyên bố rằng “những người theo đạo Thiên Chúa làm lãng phí năng lượng dành cho trái đất”. A dua theo lời chỉ trích này, Feuerbach và đặc biệt là Marx đã chống lại niềm tin vào một cuộc sống sau khi chết, cho rằng điều đó dẫn đến thái độ xa lánh những dấn thân trên trần thế. Ý tưởng về sự tồn tại của cá nhân trong Chúa đã được thay thế bằng sự tồn tại trong chủng loại và trong xã hội tương lai. Dần dà, từ “vĩnh cửu” không chỉ bị nghi ngờ, mà còn bị lãng quên và chìm vào im lặng.
Trào lưu thế tục hóa (secularization) sau đó đã đưa quá trình này đến chỗ hoàn thành và làm điều đó mạnh đến mức thậm chí ngày nay rất là bất tiện để tiếp tục nói về sự vĩnh cửu giữa những người có học thức, là những người cố theo cho kịp thời đại. Thế tục hóa là một hiện tượng phức tạp trong sự bất nhất của nó. Nó có thể được dùng để đề cập đến quyền tự quyết của các vấn đề trần thế và sự tách biệt giữa Nước Trời và vương quốc của Caesar, và theo nghĩa này, nó không những không chống lại Tin Mừng, mà còn tìm thấy trong Tin Mừng một trong những cội nguồn sâu xa nhất của nó. Mặt khác, từ thế tục hóa cũng có thể được dùng để chỉ một tập hợp các thái độ xã hội thù địch với tôn giáo và đức tin. Theo nghĩa này, thuật ngữ chủ nghĩa thế tục (secularism) là thích hợp hơn. Chủ nghĩa thế tục có cùng mối tương quan với thế tục hóa như mối tương quan giữa chủ nghĩa khoa học và tính chính xác khoa học, hay như mối tương quan giữa chủ nghĩa duy lý đối với tính hợp luận lý.
Ngay cả trong những giới hạn như vậy, các khía cạnh nhiều mặt của thế tục hóa xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như thần học, khoa học, đạo đức học, khoa diễn giải Kinh thánh, và các biểu hiện của văn hóa và đời sống thường nhật. Tuy nhiên, ý nghĩa nguyên thủy của nó chỉ có một và rất rõ ràng. “Thế tục hóa”, cũng giống như “chủ nghĩa thế tục”, bắt nguồn từ thuật ngữ saeculum mà trong ngôn ngữ hàng ngày tối hậu là dùng để chỉ thời điểm hiện tại, theo Kinh Thánh đó là “thời gian dài hiện tại, đối lập với vĩnh cửu là thời gian bất tận tương lai; hay “saeculum saeculorum”, nghĩa là “thời của mọi thời, sự sống đời đời”, như Kinh thánh gọi. Theo nghĩa này, chủ nghĩa thế tục là một từ đồng nghĩa với chủ nghĩa đời tạm (temporalismo, temporalism), trong đó giản lược thực tại trong chiều kích trần thế của nó mà thôi. Điều đó nhắm đến sự sụp đổ triệt để của chiều kích vĩnh hằng.
Tất cả những điều này đã có một tác động rõ ràng đến đức tin của các tín hữu. Chính đức tin này, từ lúc đó, đã trở nên nhút nhát và rụt rè. Lần cuối cùng chúng ta nghe ai đó giảng về cuộc sống vĩnh cửu là khi nào? Nhà triết học Kierkegaard đã rất chí lý: “Cuộc sống đời sau đã biến thành một trò đùa, một nhu cầu không chắc chắn đến mức không những không còn được tôn trọng mà thậm chí không còn được xem xét. Người ta thậm chí còn cười cợt khi nghĩ rằng đã có lúc ý tưởng này định hình toàn bộ cuộc sống.” Chúng ta tiếp tục nói trong Kinh Tin Kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, nhưng không thực sự đánh giá cao tầm quan trọng của những lời đó. Sự sụp đổ của chiều kích vĩnh cửu có ảnh hưởng tương tự đối với đức tin Kitô như tác động của cát trên một ngọn lửa: nó làm ngọn lửa tắt ngúm.
Đâu là hậu quả thực tế của tình trạng lu mờ ý tưởng về sự vĩnh cửu? Đề cập đến ý định của những người không tin vào sự sống lại từ trong kẻ chết, Thánh Phaolô nói: “Chúng ta hãy ăn uống, vì ngày mai chúng ta chết” (1Cor 15, 32). Khi bị xuyên tạc, mong muốn tự nhiên được sống muôn đời trở thành một sự thèm khát, hay đúng hơn là một sự điên cuồng, muốn được sống cho đã, nghĩa là sống cho thoải mái, ngay cả khi, nếu cần, thì người khác phải trả giá cho điều đó. Toàn bộ trái đất trở thành những gì Dante Alighieri đã từng mô tả về nước Ý vào thời của ông như “một cái sàn đập lúa nhỏ kích động mạnh sự dã man của chúng ta.” Một khi chiều kích vĩnh hằng đã sụp đổ, nỗi đau khổ của con người dường như tăng lên gấp đôi một cách phi lý và không có biện pháp khắc phục. Thế giới trông giống như “một đống kiến đang vỡ vụn”, hay như “hình vẽ của một con sóng trên bờ biển bị xóa bởi con sóng tiếp theo.” (Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, 11/12/2020)
Đọc tiếp »

KINH LẠY CHA (4)


2779

"LẠY CHA !"
Trước khi bắt đầu nguyện xin, chúng ta phải loại bỏ một số hình ảnh sai lạc của "thế gian này". Chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận rằng : "Không ai biết Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho", nghĩa là "cho những người bé mọn" (Mt11,25-27). Chúng ta phải thanh luyện tâm hồn, nghĩa là đừng để những hình ảnh của Thiên Chúa như người cha hay người mẹ, theo kinh nghiệm bản thân hay văn hóa, ảnh hưởng đến tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha chúng ta, Người siêu việt trên mọi phạm trù của thế giới thụ tạo. Khi gán cho Người hay loại bỏ khỏi Người những ý tưởng của chúng ta về Thiên Chúa, chúng ta có nguy cơ tạo ra những ngẫu tượng để tôn thờ hay đạp đổ. Cầu nguyện cùng Chúa Cha là đón nhận mầu nhiệm của Người, như Người hằng hữu và như Chúa Con đã mặc khải cho chúng ta :
"Cách gọi Thiên Chúa là Cha trước đây chưa hề mạc khải. Khi ông Mô-sê hỏi danh tánh Thiên Chúa, ông đã được nghe một danh xưng khác. Đối với chúng ta, Danh Thiên Chúa đã được mặc khải trong Chúa Con; vì Chúa Giê-su nhận mình là Con nên Thiên Chúa được gọi là Cha" (Tertulano, 3).
2780
Chúng ta có thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha, vì Con Thiên Chúa làm người mặc khải như vậy, và vì Thần Khí của Chúa Con đã làm cho chúng ta nhận biết như vậy. Chúng ta tin Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và chúng ta "đã được Thiên Chúa sinh ra"( 1Ga 5,1), nên Thần Khí của Chúa Con cho chúng ta tham dự vào tương quan ngã vị giữa Chúa Con và Chúa Cha; đây là điều con người không thể nghĩ ra được và thần thánh trên trời cũng không hiểu được (1 Ga 5,1).
2781
Khi cầu nguyện cùng Chúa Cha, chúng ta được hiệp thông với Người, và với Chúa Con là Đức Giê-su Ki-tô (1 Ga 1,3). Lúc đó, chúng ta mới nhận biết và nhận ra Người, với lòng thán phục không ngơi. Với lời đầu tiên của kinh Lạy Cha, chúng ta chúc tụng thờ lạy Chúa Cha trước khi nguyện xin Người. Thiên Chúa được tôn vinh khi chúng ta nhìn nhận Người là Cha và là Thiên Chúa thực. Chúng ta tạ ơn Người vì đã mặc khải Danh Thánh, đã cho chúng ta tin vào Danh Người và Người hiện diện trong chúng ta.
2782
Chúng ta có thể thờ lạy Chúa Cha vì Người đã tái sinh chúng ta trong sự sống của Người khi nhận chúng ta là nghĩa tử trong Con Một nhờ bí tích Thánh Tẩy. Người tháp nhập chúng ta vào Thân Thể Chúa Ki-tô, và nhờ bí tích Thêm Sức, Người cho chúng ta trở thành những "người được xức dầu" bằng Thánh Thần.
Thực vậy, Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta được làm nghĩa tử, được đồng hình đồng dạng với Thân Thể vinh quang của Đức Ki-tô. Từ nay, anh em được dự phần với Đức Ki-tô, anh em đương nhiên được gọi là những "người được xức dầu" (T.Xy-ri-lô thành Giê-ru-sa-lem 3,1).
Con người mới, sau khi được tái sinh và trả về cho Thiên Chúa nhờ ân sủng, trước hết sẽ thưa: "Lạy Cha" vì đã trở nên con Thiên Chúa (T. Xy-ri-an 9).
2783
Như thế với kinh Lạy Cha, chúng ta được mặc khải về Thiên Chúa là Cha, đồng thời được biết thiên chức của mình (x. GS 22,1 ) :
"Con người ơi, ngươi không dám ngước mặt lên trời, chỉ cúi nhìn xuống đất. Rồi thình lình, ngươi nhận được ân sủng của Đức Ki-tô: mọi tội lỗi ngươi đã được tha. Từ một tên đầy tớ gian ác, ngươi trở thành đứa con ngoan... Hãy ngước mắt nhìn lên Chúa Cha, Đấng đã chuộc ngươi nhờ Con của Người, và thưa: lạy Cha...
Nhưng ngươi đừng đòi hỏi một đặc quyền nào. Người là Cha cách đặc biệt, của riêng Đức Ki-tô, nhưng Người cũng còn là Cha của tất cả chúng ta, vì Người chỉ sinh ra; còn chúng ta là thụ tạo do một mình Đức Ki-tô nhưng Người đã dựng nên chúng ta. Vậy nhờ ân sủng, ngươi cũng hãy thưa: Lạy Cha chúng con, để xứng đáng là con của Người" (T.Am-rô-xi-ô 5,19)
2784
Ơn nghĩa tử đòi chúng ta phải hoán cải không ngừng để sống cuộc đời mới. Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta phải có hai tâm tình căn bản :
Tâm tình thứ nhất là ước muốn được nên giống Người. Dù được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng phải nhờ ân sủng chúng ta mới được phục hồi nét giống Thiên Chúa hơn, nên chúng ta có bổn phận đáp lại ân sủng này.
Phải nhớ rằng : khi gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta có bổn phận sống như con Thiên Chúa (T. Xy-ri-an 11 ) .
"Anh em không thể gọi Thiên Chúa Chí Nhân là Cha, nếu anh em còn giữ lòng độc ác và bất nhân; vì khi đó, anh em không còn giữ được dấu tích lòng nhân lành của Cha Trên Trời" (T.Gio-an Kim Khẩu ) .
"Hãy luôn chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Cha Trên Trời, để tâm hồn mình thấm nhuần vẻ đẹp đó" (T.Ghê-gô-ri-ô thành Nít ) .
2785
Tâm tình thứ hai là lòng khiêm tốn và tin tưởng nơi Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta "trở nên như trẻ em" ( Mt 18,3); vì Chúa Cha "mặc khải cho những người bé mọn" (Mt 11,25).
(Khi đọc kinh Lạy Cha), chúng ta phải chiêm ngắm Thiên Chúa, lòng chúng ta bừng cháy lửa yêu mến. Nhờ đó, linh hồn tan biến và hướng tới việc yêu mến Thiên Chúa, thân tình trò chuyện với Thiên Chúa như người Cha ruột, với lòng yêu mến thảo kính đặc biệt (T. Gio-an Cát-xi-ô 9,18).
"Lạy Cha chúng con : danh hiệu này gợi lên trong lòng chúng ta tình yêu và sự tha thiết khi cầu nguyện... đồng thời tin tưởng sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Thiên Chúa từ chối sao được, khi chính Người vừa nhận họ là con?" (T. Âu-tinh 2,4, 16).
Đọc tiếp »
 
Địa chỉ: Hiệp Hòa, Tân Thắng, Hàm Tân, Bình Thuận.